An Sĩ Toàn Thư – Bài 62 – Dục Hải Hồi Cuồng (Quyển 02 – Bài 03)
Quán bốn khoảng thời gian nên tỉnh giác. (Khi quán phép này thành tựu rồi, hành giả biết rõ cơ thể người hay ta đều do những chất hôi hám, ô uế tạo thành, đó là phương pháp tuỳ theo hoàn cảnh để trừ lòng ham muốn).
Khi người phàm phu nghĩ đến dâm dục, mỗi kiếp họ đều có sự thay đổi. Kiếp trước làm thân người nữ, khi thấy đàn ông họ liền ham muốn. Đời này được làm đàn ông, thấy phụ nữ lại thích người nữ. Khi ta thấy rõ những thứ ô uế trong cơ thể họ rồi thì lòng ham muốn không còn nổi lên nữa.
Thứ nhất, lấy khoảng thời gian khi thức dậy để quán tưởng. Thầm nhớ sau khi thức dậy, hai mắt vẫn chưa thấy rõ, chưa đánh răng súc miệng. Lúc này miệng dính đầy chất nhầy, chất màu vàng trên lưỡi dồn lại, ô uế không chịu nổi. Nên nghĩ rằng dù người con gái đẹp tuyệt trần, cho dù miệng cô gái đó tròn trịa như quả anh đào, nhưng khi chưa tô son thì cũng như miệng ta khi mới thức dậy vậy.
Thứ hai, dùng cảnh tượng sau khi say để quán tưởng. Hãy tưởng tượng sau khi ta uống rượu quá say, lộn gan lộn ruột, sáng sớm hôm sau nôn mửa, ói ra tất cả những thứ chưa kịp tiêu hoá, chó đói tìm đến cũng không thèm ngửi, vẫy đuôi bỏ đi. Nên nghĩ cho dù có người con gái đẹp rót rượu, ngọc nữ bưng thức ăn đến, khi cỗ bàn bày la liệt, ruột gan ta cũng như thế.
Thứ ba, quán tưởng khi ta bệnh. Hãy tưởng khi bị bệnh nằm trên giường, sau khi khỏi bệnh, mặt mũi đen nhẽm, hình dáng gầy gò, hoặc bị lỡ loét thối rữa, máu mủ chảy tràn, hôi hám không thể đến gần. Nên nghĩ rằng cho dù người con gái là một trang quốc sắc thiên hương, cho dù vẫn còn trẻ đẹp, nhưng một ngày mắc bệnh thì hình dáng họ cũng như thế.
Thứ tư, dùng nhà xí để quán tưởng. Hãy tưởng tượng tất cả phẩn dãi bị dồn lại trong ống thông nhà xí. Tất cả những loại rồi bọ vây quanh. Nên nghĩ cho dù người con gái có đẹp đẽ rực rỡ, cho dù họ có ướp xạ xông hương, dùng hoa nấu nước để tắm, nhưng thức ăn tiêu hoá sau khi ăn uống xong cũng giống như thế.
Quán tưởng chín điều (Sau khi thực hành phép quán này thành tựu, ta mới thấy được vô số những cảnh trạng thảm thương cơ thể mình sau khi mất. Đó là phương pháp để cắt đứt lòng ham muốn yêu thương).
Khi mọi người nghĩ đến ngày mình chết thì lòng ham muốn liền lắng dịu. Người không trí nếu nghe những chuyện này thì buồn bã khóc lóc, nhưng sau trăm năm nữa cũng đều chết cả. Chín điều quán tưởng của Bồ tát đó là bến bờ của bể khổ.
Thứ nhất, quán tưởng lúc mình vừa mất. Hãy quán xét kĩ càng một người vừa mất, đang nằm ngay đơ, cơ thể lạnh ngắt, không còn cảm giác. Nên nghĩ thân tham tài luyến sắc của ta sau này cũng như thế, lúc đó lòng dâm dục liền nhẹ bớt.
Thứ hai, tưởng tượng nước xanh ứa ra. Hãy tưởng tượng xác chết chưa tẩn liệm từ một đến bảy ngày, mùi hôi nồng nặc quyện thành nước bắt đầu chuyển sang màu sậm rất đáng sợ. Nên nghĩ rằng thân thể đẹp đẽ của ta đây sau này cũng giống như vậy, lúc đó lòng dâm dục liền nhẹ bớt.
Thứ ba, nghĩ tương máu mủ. Hãy tưởng tượng xác người chết bắt đầu rữa ra, thịt nát thành mủ, nhỏ ra từng giọt, ruột gan thối rữa. Nên nghĩ thân phong lưu đẹp đẽ của ta trong tương lai cũng không khác gì thân đó, thì lòng dâm dục liền nhẹ bớt.
Thứ tư, chất nhầy tiết ra.Hãy nghĩ một xác chết thối rữa đã quá lâu, nước màu vàng bắt đầu ứa ra, hôi hám không chịu nổi. Nên nghĩ cơ thể thơm tho của ta trong tương lai cũng như thế, thì lòng dâm dục liền nhẹ bớt.
Thứ năm, sâu dòi rúc rỉa. Hãy nghĩ rằng khi thịt thối rữa lâu ngày, dòi bọ sinh ra đầy cơ thể, rúc rỉa khắp nơi, trong các khớp xương đều như những ổ ong. Nên nghĩ rằng thân thể bạn bè loan phượng trong tương lai cũng như thế, thì lòng dâm dục liền nhẹ bớt.
Thứ sáu, gân buộc. Hãy nghĩ khi xác chết rã ra, da thịt rụng rời chỉ còn lại gân buộc những đốt xương, như dây buộc củi, để khỏi rơi rớt. Nên nghĩ sau này thân ta cũng như thế, thì lòng dâm dục liền nhẹ bớt.
Thứ bảy, quán tưởng xương rời ra. Quán tưởng xác chết khi gân đứt rã, các đốt xương vung vãi khắp nơi, không nằm với nhau một chỗ. Nên tưởng tượng sau này cơ thể ta cũng như thế, thì lòng ham muốn liền bớt đi.
Thứ tám, quán tưởng cháy đen. Quán tưởng xác chết bị lửa đốt cháy, co rúm trên đất, có thứ chín có thứ vẫn còn sống, mắt không dám nhìn. Nên nghĩ thân văn chương cái thế của ta trong tương lai cũng như thế, thì lòng dâm liền nhẹ bớt.
Thứ chín, quán tưởng xương khô. Quán tưởng khi quật mộ lên, xương cốt dãi nắng dầm sương nên có màu trắng hay màu vàng sẫm, các loài thú và con người dẫm đạp lên. Nên nghĩ thân chóng già của ta sau này cũng như thế, lúc đó lòng dâm liền nhẹ bớt.
Thứ mười, dẫn chứng kinh sách. Kinh Niết bàn nói: Khi Bồ tát tu phép quán chết chóc, họ thấy mạng sống đó có vô lượng những oán thù vây quanh, mỗi niệm đều hao mòn, không còn phát triển. Như nước từ núi đổ xuống, không bao giờ ngưng nghỉ. Giống như giọt sương sớm, không giữ được lâu. Như người bị tội tử hình đi về phía chợ, mỗi bước đi là đến gần cái chết. Như những loài dê, trâu bị kéo về phía lò mổ.
Quán tưởng luân hồi. (Khi hành giả thực hành phép quán này thành tựu, liền thấy hình tướng của tất cả chúng sinh trong sáu nẻo. Đó chính là phương pháp dùng trí để phá bỏ nhân duyên sai lầm).
Khi thức ra khỏi cơ thể, nó được gọi là thân trung ấm. Sau khi nhập vào bào thai thì hình dáng nó ẩn mất. Như ngọn đèn trong căn nhà tối tăm, khi đèn tắt thì bóng tối trở lại. Mười bảy hình tướng trong sáu đường, người trí nên tỉnh giác.
Thứ nhất, hiện tượng người sau khi chết được sinh lên cõi trời. Kinh Chính pháp niệm xứ nói: Nếu một người sau khi chết được sinh lên các cõi trời liền thấy những sợi tơ màu trắng mềm mại buông rủ như muốn rơi xuống, lại thấy những cảnh tượng như vườn rừng, ao hồ, trong đó có những mĩ nữ ca hát nhảy múa, tiếng âm nhạc, mùi hương thơm ngát, tiếng bà con khóc lóc. Vì có phước nghiệp nên tự nhiên không nghe, không còn nhớ lại những gì trước đó, liền được sinh lên các cõi trời.
Thứ hai, hiện tượng người cõi Diêm phù đề sau khi chết được sinh qua cõi Uất đơn việt. Khi thân trung ấm của họ thấy tơ màu đỏ mềm mại liền sinh lòng tham lam, đưa tay vớ lấy, những người thân thích cho rằng hai tay họ đang với vào không trung. Kế đó lại thấy rất nhiều thiên nga, bồ câu trong hồ sen xanh. Họ liền dạo chơi trong đó, sau khi đi từ trong hồ sen trở ra, họ thấy lòng dâm của cha mẹ họ là ô uế. Vì không làm chủ được nên khi thấy thân cha là con ngỗng đực, thân mẹ là con ngỗng cái. Nếu được làm người đàn ông thì họ thấy thân mình như con ngỗng đực, họ thấy mình ghét bỏ người cha, yêu thương người mẹ. Nếu họ là thân người đàn bà, liền thấy mình là con ngỗng cái, thương yêu người cha, ghét bỏ người mẹ.
Thứ ba, hiện tượng người cõi Diêm phù đề sau khi chết sinh về cõi Cồ đà ni. Thân trung ấm của họ liền thấy sợi tơ màu vàng uốn lượn. Tất cả nhà cửa đều biến thành màu vàng ròng, họ thấy thân mình như thân con trâu, cha họ như con trâu đực, mẹ họ như con trâu cái. Tâm yêu ghét cũng như thế.
Thứ tư, hiện tượng người cõi Diêm phù đề sau khi chết sinh về cõi Phất bà đề. Khi một người sắp chết, thấy mọi thứ xung quanh mình đều có màu xanh, có dạng như sợi tơ màu xanh được treo lên. Họ sợ sợi tơ màu xanh rơi xuống nên họ với tay ngăn lại. Nếu sợ như thế, khi nam nữ chung đụng đều giống như hình con ngựa. Người nam như con ngựa đực, người nữ như con ngựa cái, vì sự yêu ghét của chúng nên được chia ta nam nữ.
Thứ năm, hiện tượng người hạ phẩm cõi Uất đơn việt sau khi chết được sinh lên các cõi trời. Khi gần chết, nghe mùi thơm hoa quí, tâm họ liền sinh tham lam, muốn leo lên cây lớn. Khi nghĩ như thế, họ được lên trên cây đó, đó chính là núi Tu di, lúc đó họ thấy được cây trái đẹp đẽ trong tất cả các cõi trời.
Thứ sáu, hiện tượng người trung phẩm cõi Uất đơn việt sau khi chết được sinh lên các cõi trời. Khi mất họ thấy những con ong bay lượn xung quanh hoa sen trong hồ, họ nhảy lên trên những cánh hoa sen đó rồi bay lên hư không.
Thứ bảy, hiện tượng người thượng phẩm cõi Uất đơn việt sau khi chết được sinh lên các cõi trời. Khi mất họ thấy những nhà cửa cung điện đẹp đẽ, sau khi họ đi vào những nhà cửa đó liền thành con cái nhà trời.
Thứ tám, một hiện tượng khác nữa người cõi Uất đơn việt sinh lên cõi trời. Khi mất họ thấy mình được dạo chơi trong những vườn trong rừng nhưng tâm không lay động, vì tâm thanh tịnh, họ liền được lên các cung điện, thấy những người trên cõi trời rồi bay lên hư không.
Thứ chín, hiện tượng người cõi Cồ đà ni sau khi chết được sinh lên các cõi trời. Khi mất họ thấy một hồ nước lớn, thần thức họ trôi nổi trong đó, bị đẩy qua bờ bên kia, thấy các người con gái nhà trời đến gần rồi ôm lấy, họ liền được sinh lên cõi trời.
Thứ mười, hiện tượng người cõi Phất bà đề sau khi chết được sinh lên cõi trời. Khi mất thấy những cung điện đẹp đẽ, họ liền ưa thích. Bên ngoài những cung điện đó họ thấy những người trời vui đùa với thiên nữ. Họ như được thức dậy sau giấc ngủ, lúc đó liền được sinh lên cõi trời.
Thứ mười một, hiện tượng hết chịu kiếp quỉ đói được sinh lên cõi trời. Lúc hết chịu nghiệp quỉ đói họ không còn thấy đói khát nữa, thấy đồ ăn thức uống họ chỉ đưa mắt nhìn và thấy vui, lúc đó họ liền sinh đến cõi trời.
Thứ mười hai, hiện tượng súc sinh hết nghiệp được sinh lên cõi trời. Khi chịu hết nghiệp họ liền thấy ánh sáng, lòng ngu muội của họ nhẹ hơn, trí tuệ dần mở ra, vui vẻ, họ liền được sinh đến đó.
Thứ mười ba, hiện tượng hết chịu nghiệp ở địa ngục được sinh lên cõi trời. Khi lính ngục đánh họ, bị đánh xong họ chết, nếu bị đặt lên bàn chông sắt hay nồi nước đồng sôi xong, họ chết. Nếu bị các loại chim sắt hay ác thú ăn thịt, ăn xong họ liền chết, không còn sinh lại trong địa ngục nữa. Bỗng thấy trên không trung có tiếng nói cười ca hát, gió thơm thổi đến cơ thể liền được sinh lên cõi trời.
Thứ mười bốn, hiện tượng người chết sinh trở lại làm người. Khi gần chết họ thấy núi đá lớn, muốn rơi lên đó nên họ với tay đến, lại thấy quả núi đó như sợi tơ màu trắng liền nhảy lên kéo nó. Khi nhảy lên hoá ra đó là sợi tơ màu đỏ, mấy lần như thế thì thấy ánh sáng, trong ánh sáng đó họ thấy nam nữ ăn ở cùng nhau. Nếu họ được sinh làm người nam liền thấy thân mình tiếp xúc với người nữ, cho rằng cha mình làm trở ngại. Người được sinh làm phụ nữ thì thấy ngược lại. Khi thân trung ấm mất đi liền đầu thai.
Thứ mười lăm, hiện tượng người trên cõi trời sau khi chết lại được sinh lên cõi trời. Khi một người trên cõi trời mất đi, họ không mất những chi tiết tốt đẹp trên cơ thể mình, cũng không thấy cõi trời nào nữa, họ vẫn ở lại ngay chỗ của mình. Từ cõi trời dưới sinh lên cõi trời cao hơn nữa thì có hiện tượng đẹp đẽ hơn.
Thứ mười sáu, hiện tượng những người cõi trời trên khi chết sinh xuống cõi trời thấp hơn. Họ thấy vườn tược ao hồ không như trước đây nữa, thấy mình đói khát khổ não, họ muốn cải thiện liền vãng sinh.
Thứ mười bảy, hiện tượng sinh qua lại của những người hai cõi Phất bà đề và Cồ đà ni. Khi gần chết họ thấy ánh sáng màu đỏ như những lá phan rủ xuống trong động tối, họ với lấy, đưa những cành phan đó vào động, liền đó họ nhận thân trung ấm, hoặc thấy hai con trâu hoặc hai con ngựa, giống như trước đây. (Khi rơi xuống địa ngục, mỗi mỗi đều có những hiện tượng khác nhau. Được mô tả chi tiết trong kinh Phật quán tam muội, nhưng do nhiều quá nên không chép ra ở đây).
Quán tầng trời cõi Dục. ( Khi quán tưởng phép quán này thành tựu, hành giả biết được nguyên nhân dẫn đến phước trời dày hay mỏng. Đây là phương pháp nhờ những yếu tố khác để đạt đến giác ngộ).
Kinh hãi thay cõi Ta bà, không ai không chìm đắm trong sắc dục. Từ chư tiên cõi trời cho đến các loại côn trùng. Hễ có hình dáng và nhận thức liền bị sóng nghiệp nhấn chìm. Nhưng nghiệp nặng nhẹ của họ khác nhau rõ rệt. Nếu phước lớn thì do dục mà mất bớt, nếu tình nặng thì vì dục mà càng thêm bức bách. Thử xem tâm ham muốn của bầy chó hành dục, có gì ghê gớm hơn. Một con chó cái hôi hám nhưng cả bầy chó đực muốn chiếm hữu cho được. Những con khoẻ hơn đạp trên vai, con yếu hơn chạy xung quanh. Khi được thoả mãn lòng tham rồi, bọn chúng ra vẻ tự đắc, thè lưỡi vễnh tai không chút hổ thẹn. Nếu có người bực bội liền vác gậy đánh. Những tình cảm của chúng bỗng trở thành tai hoạ. Người cõi trời nhìn những người ở cõi này cũng thế, hơn hẳn những cõi trời đó là uy đức của Như lai.
Thứ nhất, cõi trời Tứ vương và cõi trời Đao lợi. Kinh Lâu thán chính pháp viết: Khi người ở cõi trời Đao lợi và Tứ vương hành dục thì hình thể của người nam và nữ quấn lấy nhau, giống như người ở cõi Ta bà, chỉ khác là họ không xuất tinh.
Thứ hai, cõi trời Dạ ma. Trên cõi trời Dạ ma, khi thích thú họ đến ôm nhau, hoặc chi nắm tay là được.
Thứ ba, cõi trời Đâu suất. Ở cõi trời Đâu suất, khi có ý thích nhau, họ chỉ nói cười, không cần ôm nhau.
Thứ tư, cõi trời Hoá lạc. Trong cõi trời Hoá lạc, mọi người chỉ cần nhìn nhau, không cần nói cười.
Thứ năm, cõi trời Tha hoá tự tại. Những người trong cõi trời Tha hoá tự tại chỉ cần nghe tiếng nói của nhau, hoặc nghe mùi thơm của nhau, không cần nhìn nhau.
Quán nhân duyên. (Khi quán tưởng phép quán này thành tựu rồi, hành giả hiểu rõ cội gốc phiền não trong ba đời. Đây chính là phương pháp đạt đến cội gốc ái nhiễm).
Chúng sinh sợ quả khổ, Bồ tát cắt nhân ác. Khi cắt được nhân ác khổ quả liền tự mất. Giống như con sư tử mạnh mẽ bị mũi tên nhọn đâm trúng bờm, nó liền lao đến chỗ mũi tên bắn ra, chăm chú tìm bốn phía, sau khi tìm ra rồi nó liền vồ lấy, thợ săn cũng không còn. Khi con chó bị người đánh nó bèn tìm cây gậy để sủa. Một bên là hành động khôn ngoan, bên kia là việc làm ngu xuẫn, như đi đường tắt hay đi qua quãng sân rộng. Lại như muốn để nước đừng sôi nữa, người đầu bếp chỉ cần rút bớt củi. Trong mười hai nhân duyên, điều ác khởi đầu chính là vô minh. Mọi người ngồi yên lặng, nghe giảng kinh Pháp hoa.
Kinh Pháp hoa nói: Vô minh duyên hành. (Vô minh là sự ngu si có từ đời trước, không thấy rõ điều gì. Duyên tức là nguyên do, lí do. Hành, nghiệp tạo ra từ đời trước. cả câu có nghĩa: Vì một niệm ngu si từ nhiều đời trước nên tạo nghiệp) Hành duyên thức. (Thức: Là suy nghĩ sai lầm đầu tiên, muốn thác vào thai mẹ) Thức duyên danh sắc. (Danh sắc: Từ sau khi thác vào thai mẹ thì các bộ phận đã dần hình thành) Sắc duyên lục nhập. (Khi đủ sáu căn, sau này tất nhiên sẽ tiếp xúc sáu trần nên gọi là lục nhập) Lục nhập duyên xúc. (Xúc: Sau khi ra khỏi thai mẹ được ba bốn năm, hãy chưa hiểu gì về cuộc đời, nên gọi là xúc) Xúc duyên thọ. (Thọ: Từ khi lên năm sáu tuổi cho đến mười một mười hai tuổi, chúng ta đã có thể nhận thức được những gì đã trải qua) Thọ duyên ái. (Ái: Từ lúc lên mười bốn mười lăm tuổi đến mười tám mười chín tuổi, chúng sinh đã tham đắm danh tiếng, hình dáng, liền nổi lòng yêu thương) Ái duyên thủ. (Thủ: Từ sau hai mươi tuổi, tham dục ngày càng nặng nên chúng sinh mong có được nó không lúc nào ngưng nghỉ) Thủ duyên hữu. (Hữu: Nguyên nhân của hữu lậu. Một khi đã tham đắm cảnh giới thiện ác, trong tương lai sẽ lại trong ba cõi) Hữu duyên sinh. (Sinh tức là thân năm uẩn sau này sẽ rơi vào trong sáu đường) Sinh duyên lão, tử, ưu bi, khổ não. (Lão, tử tức thân này trong tương lai, già và sẽ chết). Khi vô minh hết thì hành hết. Khi hành hết thì thức hết. Khi thức hết thì danh sắc hết. Khi danh sắc hết thì sáu nhập hết. Khi sáu nhập hết thì xúc hết. Khi xúc hết thì thọ hết. Khi thọ hết thì ái hết. Khi ái hết thì thủ hết. Khi thủ hết thì hữu hết. Khi hữu hết thì sinh hết. Khi sinh hết thì già, chết, ưu bi, khổ não cũng hết. (Vô minh trong quá khứ tức lòng ham muốn giữ chặt trong hiện tại. Nếu quán sát tất cả đều vô thường, hành giả có thể phá được những thứ ham muốn trong hiện tại, và vô minh trong quá khứ cũng bị phá. Đó là con đường giản yếu nhất).
Quán giải thoát. (Khi hành giả quán phép quán này thành tựu rồi, tự nhiên mọi tội lỗi được tiêu diệt, họ được hoá sinh trong hoa sen. Đó là con đường để hành giả cắt đứt dòng sinh tử, đứng trên bờ Bồ đề).
Tu hành không cứ phương pháp nào, miễn cuối cùng đạt đến giải thoát. Giải thoát có nhiều cách, trong đó pháp môn Tịnh độ là con đường tắt. Mỗi lời trong phép quán tưởng tôi thuật lại dưới đây đều là hướng đến Đại thừa. Muốn sinh lên thượng phẩm liên hoa là thì phải cắt đứt chuyện dâm dục.
Những vị không để tâm đến dâm dục nữa, mỗi sáng sớm sau khi đánh răng súc miệng xong, mặc y phục sạch sẽ, đốt hương đảnh lễ Tam bảo rồi ngồi xếp bằng hướng về phiá Tây. Trước hết tưởng niệm trên đỉnh đầu mình có chữ “lam” bằng tiếng Phạn phát ra ánh sáng màu đỏ, ban đầu chỉ bằng viên ngọc màu đỏ, tiếp theo lớn bằng mặt trăng biến thành vòng lửa hình tam giác, thiêu đốt toàn thân từ đầu đến chân, đốt cháy một thành quách, một quốc gia, đốt cháy châu Diêm phù đề, rộng dần ra ba thiên hạ rồi đến cõi nước trong mười phương. Nếu người mắc tội nặng, khi bị chữ Phạn này thiêu đốt, thì tội của họ cũng được tiêu diệt. Tiếp tục lại quán tưởng chữ “a” bằng tiếng Phạn thì thân ta và tất cả thân chúng sinh thành thân kim cương không gì phá vỡ được. Thân ta đang ở trong những cánh hoa sen nghìn cánh chưa nở trong hồ thất bảo của thế giới Cực lạc ở phương Tây. Lại tiếp tục quán tưởng tâm ta như mặt trăng. Trong mặt trăng đó có chữ “án” bằng tiếng Phạn. Lại tiếp tục quán tưởng hoa sen kia bỗng nở ra tròn đầy bằng mười hai do tuần, thân sen được làm bằng vàng ở cõi Diêm phù đàn, lá sen được làm bằng bạc trắng, nhuỵ sen được làm bằng kim cương, đài sen được làm bằng ngọc Chân thúc ca, tất cả đều rất đẹp đẽ không thể kể hết. Lại quán tưởng khi hoa sen nở ra bỗng thấy đức Phật A di đà đang ngồi trên toà hoa sen báu, cánh hoa đó có tám vạn bốn nghìn cánh, trên mỗi cánh hoa có tám vạn bốn nghìn đường gân, trên mỗi đường gân có tám vạn bốn nghìn màu sắc, mỗi sắc màu như thế có tám vạn bốn nghìn ánh sáng. Thân đức Phật như màu của vàng Diêm phù đàn của hàng nghìn vạn ức cõi trời Dạ ma, cao vô lượng do tuần, giữa hai lông mày có hào quang màu trắng, nhẹ nhàng uốn về bên phải như năm ngọn núi Tu di. Mắt Phật như nước trong bốn đại dương, hai màu xanh và trắng rõ rệt. Những lỗ chân lông trên cơ thể Ngài đều phóng ra ánh sáng. Ánh sáng tròn đầy trên đức Phật như trăm ức đại thiên thế giới. Lại quán tưởng trên một toà hoa sen báu lớn ở bên trái đức Phật, có Bồ tát Quán thế âm đang ngồi xếp bằng trên đó, thân Ngài màu tím của vàng ròng, trên đầu Ngài có viên ngọc Ma ni làm mũ trời, tua rủ xuống được kết bằng những ánh sáng vi diệu. Trên tay phóng ra nhiều màu sắc của năm trăm ức hoa sen, trên đầu mỗi ngón tay có tám vạn bốn nghìn bức vẽ và phát ra ánh sáng. Mỗi lúc cất bước chân đều phát ra hình nghìn vòng tròn, tự nhiên hoá ra năm trăm ức đài ánh sáng. Những hình tướng khác đều giống như Phật, chỉ có những thớ thịt nổi trên đỉnh đầu và tướng không nhìn thấy đỉnh đầu thì không có được như đức Thế tôn. Lại quán tưởng trên một đài sen báu lớn bên phải đức Phật là đức Bồ tát Đại thế chí đang ngồi xếp bằng trên đó, mức độ lớn nhỏ của thân cũng như đức Bồ tát Quán thế âm, ánh sáng tròn đầy mỗi phía rộng đến một trăm hai mươi lăm do tuần, toả sáng đến hai trăm năm mươi do tuần. Trên chiếc mũ trời có năm trăm đài hoa báu đều hiện tất cả những việc Phật. Ngài thường đưa tay báu của mình để tiếp dẫn những người tu pháp môn niệm Phật. Lại quán tưởng trên đất làm bằng ngọc lưu li có những đoạn dây bằng vàng giăng ra để làm mốc giới các con đường, trên đó có nghìn vạn lầu gác được xây bằng trăm nghìn thứ châu báu. Những cung điện lầu các đó có ngôi nổi lên hư không, có ngôi được xây trên đất. Trong đó có nhiều nhạc khí tấu lên những âm nhạc hay tuyệt. Lại quán tưởng những cây cổ thụ đẹp đẽ được trồng thành hàng bảy lớp, trên các cây đó đều có hoa trái bảy báu, trên mỗi cành hoa, quả đều phát ra những màu sắc đẹp lạ, trong màu sắc bằng ngọc lưu li phát ra ánh sáng bằng vàng ròng. Trong màu sắc ngọc lưu li lại phát ra ánh sáng màu hồng. Trong màu sắc mã não phát ra ánh sáng ngọc xa cừ. Trong màu sắc ngọc xa cừ lại phát ra tất cả ánh sáng màu xanh trân châu, san hô, hổ phách để trang hoàng. Trên các cây đó lại được bao trùm bằng lưới chân châu. Lại quán tưởng trong hồ thất bảo đều chứa đầy nước tám công đức đều được cấu tạo bằng các loại châu báu, những châu báu đó đều mềm mại và được sản xuất từ châu như ý, chia thành bốn mươi hai nhánh, mỗi nhánh đều có màu thất bảo. Vàng ròng làm kênh, đáy kênh là cát được làm bằng kim cương nhiều màu. Trong mỗi hồ nước đều có sáu mươi ức hoa sen bảy châu báu, mỗi hoa sen đều tròn đầy và rộng mười hai do tuần như nhau. Tiếp tục quán tưởng ta được thấy các đức Phật và Bồ tát, lền vui vẻ bay lên hư không đến nơi chỗ các Ngài cúi đầu đảnh lễ rồi đốt những thứ hương thơm vô giá, rãi những hoa báu vô giá, tấu lên vô lượng âm nhạc nhà trời phóng ra vô số mây báu để dâng lên đức Phật A di đà và hai vị Bồ tát. Lại tiếp tục quán tưởng sau khi ta cúng dường xong, đến trước các Phật và Bồ tát để sám hối, nguyện xin cứu độ tất cả chúng sinh. Tiếp tục quán tưởng mỗi cây báu, mỗi lầu các, mỗi cung điện ở thế giới Cực lạc đều có một vị Phật và hai vị Bồ tát đang ngồi xếp bằng ngay ngắn. Thân ta cũng hoá vô lượng thân đến trước tất cả những vị Phật Bồ tát rồi cúng dường như trước, sám hối phát nguyện như trước. Lại quán tưởng mình trở lại ngồi xếp bằng ngay trên hoa sen như trước, nhất tâm quán tưởng tướng hào quang trắng giữa lông mày đức Phật A di đà vẫn vắng lặng đứng yên. Nếu có những vọng niệm nổi lên liền quán tưởng hoa sen nở và đóng lại thì vọng niệm liền hết. Nếu tâm phân biệt nổi lên liền quán tưởng chữ “sái” bằng tiếng Phạn thì tâm phân biệt liền mất ngay. Nếu tâm chấp trước nổi lên liền quán tưởng chữ “hàm” bằng tiếng Phạn thì các chấp trước liền hết. (Phép quán tưởng này được mô tả chi tiết trong kinh Thập lục quán. Vì hạn chế trong khuôn khổ cuốn sách nên không chép ra hết. Nên tóm tắt mấy tắc, sau khi đã xem thêm các cuốn kinh Đại A di đà, Quán kinh sớ sao, Hiển mật viên thông, Chuẩn đề, Tịnh nghiệp… để những người mới học phép quán này dễ dàng tu tập, hoặc giúp đỡ phần nào cho những người chưa thể nhất tâm. Những vị đã có lòng tin chắc chắn nên xem thêm chi tiết trong cuốn Thập lục quán kinh để pháp quán không trái ngược lời Phật dạy, mới khỏi rơi vào cảnh ma. Đến lúc quán tưởng được thành thục rồi thì cảnh giới thanh tịnh hiện ngay trước mặt, đến lúc đó thì dù cung trời trước mắt cũng không thèm nhận chứ đâu chỉ khư khư khư đề phòng tà dâm, là thứ pháp để nói cho những người mới bước vào đạo. Biển dục đã yên bình trở lại
*****
BIỂN DỤC SÓNG NHỒI
Quyển ba: Quyết nghi luận
Bàn chung về nghiệp dâm, tám câu hỏi tám câu trả lời.
Câu hỏi 1: Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng rồi sinh ra loài người, vì thế có thể thấy thân thể nam nữ là do trời đất sinh ra. Trời đất đã sinh ra con người mà lại ghét chuyện quan hệ nam nữ, tại sao có chuyện như thế?
Đáp: Chuyện thành gia thất của nam nữ là ước mong lớn nhất của cha mẹ, nhưng nếu con cái không vâng lời cha mẹ mà lại đục lỗ đào tường rồi trở nên nghèo khổ, bị người ghét bỏ. Cha mẹ cũng như thế, trời đất cũng không khác.
Câu hỏi 2: Trời đất lấy con người làm trung tâm, đạo nam nữ là nguồn gốc sinh ra con người, nếu trời đất ghét bỏ việc đó thì lẽ sinh tồn ở đâu?
Đáp: Việc lấy con người làm trung tâm tức là thương xót không làm hại mọi người, không phải chuộng việc sinh đẻ nhiều. Nếu trời đất mến chuộng chuyện sinh đẻ nhiều thì những loài như gà chó, sinh một lần mười mấy con, một bụng trứng cá đã tạo ra hàng nghìn hàng vạn, so với con người há không phải hợp hơn với lòng trời sao.
Câu hỏi 3: Thượng đế đã ghét người tà dâm thì sao không khiến sinh một loại người, đến lớn thì tự sinh con, thì loại trừ được chuyện tà dâm. Sao Thượng đế không nghĩ cách để làm chuyện đó?
Đáp: Tuy Thượng đế điều khiển chuyện hoạ phước nhưng chẳng qua nhân một vật để đưa ra một vật thích hợp mà thôi, ban đầu không chủ ý đến những chuyện như thế, huống gì hình thể người nam hay người nữ là do tâm đời trước tạo ra. Thượng đế đã không thể bắt buộc mọi người nam nữ trong cuộc đời đều suy nghĩ như nhau, lại làm sao bắt buộc mọi người nam nữ trong đời đều giống nhau về hình dáng được.
Câu hỏi 4: Nam nữ ái ân là chuyện kín đáo, riêng tư, làm sao trời đất quỉ thần đều biết rõ mồn một?
Đáp: Tâm và cõi đời, hoàn cảnh xung quanh, vốn không phải khác nhau. Tâm mình biết được thì mười phương thế giới liền biết chứ đâu chỉ trời đất quỉ thần biết mà thôi. Nước lặng thì trăng hiện, chuột thối thì dòi sinh, sao không xem xét lẽ đó.
Câu hỏi 5: Giết hại sinh vật sẽ làm cho họ suốt kiếp thống khổ, trộm cắp sẽ khiến họ nghèo nàn. Việc họ chịu tội báo tất nhiên là khỏi bàn, nhưng những người tà dâm thì họ và người quan hệ với họ đều vui vẻ, có làm tổn thương ai đâu? Đáp: Cả hai tất nhiên vui vẻ, thử hỏi chồng cô gái thấy việc họ làm có vui không, anh em, cha mẹ của họ thấy việc họ làm có vui không. Trời đất quỉ thần thấy việc họ làm có vui không. Nếu vui, bất quá chỉ một người, còn nghiến răng bấm bụng, những ánh mắt nảy lửa xung quanh thì đầy khắp không gian. Làm sao bảo không tội được.
Câu hỏi 6: So với trộm cắp và sát sinh, rốt cục ai nặng ai nhẹ?
Đáp: Người sát sinh thì khó chịu nổi sự thống khổ. Người tà dâm thì không chịu nổi vì mang tiếng. Người ăn cắp thì tài sản mình bị hao tổn. Người trộm cắp thì mất cơ hội tu tâm dưỡng tính. Nguyên nhân khác nhau thì kết quả không giống nhau. Vì thế người phạm tội ăn cắp, sát sinh, nhanh như lửa gặp gió, nhanh sinh ra và nhanh chết đi. Nhưng người phạm giới tà dâm như mắc bệnh lao, khó khỏi khó trừ. Không thể biết ai nặng ai nhẹ được.
Câu hỏi 7: Nhảy qua tường nhà hàng xóm để quan hệ với con gái đó là tự mình đem cái khổ đến cho mình, còn như ngững người con gái tự tìm đến với mình là do họ chui đầu vào lưới. Ta quan hệ với họ thì làm sao mang tội? Đáp: Quan hệ với người khác là lòng gì. Quan hệ với con gái khi họ đến với mình là ý gì. Mình bắt cũng như họ đến với mình đều giống nhau. Giống như người kia có thuốc độc, trộm để uống tất nhiên sẽ chết nhưng tự mình uống cũng không sống nổi.
Câu hỏi 8: Quan hệ với con gái nhà lành thì tội người kia đã nặng, nhưng đối với tì thiếp, làm sao nên tội?
Đáp: Thân khi họ chịu nhục có sự phân biệt giàu hèn nhưng khi ta quan hệ thì làm gì có sự phân biệt. Quan hệ với gái lầu xanh còn mang tội huống gì tì thiếp.
Chi tiết về nhân quả, tám câu hỏi, tám câu trả lời.
Câu hỏi 1: Người giàu có lắm của cải thường tạo nhiều nghiệp dâm dục, sao không thấy họ chịu khổ báo?
Đáp: Duyên lành đời trước đã chín muồi thì tuy đời này làm nhiều việc ác nhưng vẫn nhận được quả báo tốt, để cái khổ lại đời sau. Giống như thóc gạo của năm đói kém có được từ năm trước để lại, năm này đói kém nhưng năm sau mới bị đói, việc thiện cũng như thế. (Kinh Thuyết bổn nghiệp báo sai biệt).
Câu hỏi 2: Chuyện trăng hoa, đối nghịch với công danh, nghĩa là gì?
Đáp: Chuyện trăng hoa làviệc làm mất thanh danh của gia tộc nên chính người đó cũng mất danh dự của mình.
Câu hỏi 3: Người hiếu sắc thì đời sau sẽ sinh làm phụ nữ, vì sao vậy?
Đáp: Trong suy nghĩ của người ham mê sắc dục lúc nào cũng nghĩ đến người con gái xinh đẹp. Bị tình cảm lôi kéo nên hình dáng, lời ăn tiếng nói… thường học theo hình dáng người phụ nữ, vì thế tính cách người đàn ông giảm dần, vô tình hình dáng biến đổi theo ý nghĩ của họ.
Câu hỏi 4: Trong tâm tư người đàn ông tham muốn sắc dục lúc nào cũng là người phụ nữ, nếu đời sau họ đoạ làm thân người nữ thì người nữ đó, đời sau lúc nào cũng nghĩ đến người đàn ông nên họ được làm đàn ông. Người phụ nữ được may mắn gì và người đàn ông bị bất hạnh ra sao?
Đáp: Chuyển nam thành nữ đó là rơi xuống, chuyển nữ thành nam đó là siêu sinh. Cùng tạo nguyên nhân đoạ lạc thì không phải ai cũng được kết quả siêu sinh. Giống như hai người cùng leo núi, một người leo lên đỉnh nhìn xuống rồi bỗng nhiên sẩy chân. Người kia leo lên cao hơn người kia nhìn lên, bỗng nhiên cũng sẩy chân. Người nhìn xuống sẩy chân tất nhiên rơi xuống chân núi, nhưng há người nhìn lên rồi bị sẩy chân thì có thể rơi lên đỉnh núi được sao.
Câu hỏi 5: Có được con cái là do quan hệ vợ chồng mà có, thế thì quan hệ nhiều thì sinh nhiều con cái. Sao những người đắm chìm trong sắc dục lại thấy con cái ít đi?
Đáp: Có hai lí do. Một là dùng hết cách sinh con trai nhưng không thể sinh được, hai là do tinh dịch hao tổn, như một người chưng rượu bỏn xẻn, dùng nhiều nước nhưn gạo ít.
Câu hỏi 6: Những người thế gian thường quan niệm vì tạo nhiều tội ác nên không có con cái, như làm quan không quan tâm đến đời sống nhân dân. Nếu những người siêng làm việc thiện, thì có thể cuộc sống con cháu họ sau này tốt đẹp, còn những người hay dâm dục thì để hậu hoạ lại cho con cháu sau này. Thế thì con cháu của những người làm việc thiện vì sao được hưởng phúc tự nhiên, con cháu những người ham mê dâm dục sao lại chịu những tai ương?
Đáp: Đời trước tu thiện thì đời này được đầu thai vào nhà hiền hậu để hưởng phúc. Đời trước đã làm nhiều điều ác thì đời này phải đầu thai vào nhà người ác để chịu tai hoạ. Hoa sen không thể sống được trên đất khô cằn, chuột bọ há chui vào được bào thai rồng hay voi.
Câu hỏi 7: Người tu thiện sinh được con ngoan, đó là lẽ thường. Nhưng một người đó có duyên mới thác sinh đến nhà ta. Nhỡ phước của họ tương xứng với ta nhưng duyên không hợp, hoặc duyên họ hợp với ta mà phước không tương xứng với ta thì phải làm sao?
Đáp: Từ nhiều đời kiếp đến nay, nhưng người muốn báo thù ta không kể hết, nhưng những người muốn đền ơn ta cũng vô số. Người làm điều thiện thì được đáp lại bằng việc thiện, người làm điều ác thì nhận được việc ác, đừng lo không có phương pháp thay đổi.
Câu hỏi 8: Người hiểm ác tất nhiên không con nối dõi, nhưng người ăn chay niệm Phật, phát tâm xuất thế sao vẫn không con?
Đáp: Người làm ác không con là do ác nghiệp khắc nghiệt. Người tu tập mà không con là phước báo của sự thanh tịnh. Trong đời, những đứa con làm phiền lòng cha mẹ thường làm cho ông bà chết vẫn không nhắm được mắt, số đó không phải ít. Những bậc Thánh hiền vẫn không toan liệu được chuyện con cái huống gì những người khác. Cho dù có tiếp nối dược đức độ của các vị nhưng nghiệp dâm dục, sát sinh vẫn giống như mọi người. Xét tận nguồn gốc, ai là người khắt khe nhất. Vì thế tu hành, thường là những người có trí tuệ lớn, muốn cầu được giải thoát thanh tịnh, vừa muốn bỏ xác thân này, lại mong cắt đứt hạt giống phàm phu. Nhìn ra cuộc đời, quán mọi thứ như chuột bọ sâu dòi. Giống như có người ngày trước làm thân mèo, sinh được chú mèo con tất nhiên vui mừng hớn hở, yêu thương con nó. Nhưng đến đời sau được sinh làm người, nhớ lại ngày trước con mèo đó chính là mình, thấy nó trộm cá, bắt chuột thì ân hận xót xa lắm, há lại còn muốn mình mãi làm kiếp mèo, lúc nào cũng sinh sản sao.
Hỏi một số vấn đề về đề phòng dâm dục, mười câu hỏi, mười câu trả lời.
Câu hỏi 1: Phẩm Phổ môn nói: Nếu có chúng sinh nào ham mê dâm dục, thường niệm cung kính Bồ tát Quán thế âm, thì được lìa xa dâm dục. Làm sao có được chuyện như thế?
Đáp: Sắc dục là bến mê, Phật pháp là con đường giác ngộ. Giác ngộ phá tan mê lầm như ánh đèn phá tan bóng tối, đó là lẽ đương nhiên. Khổng tử nói: Người dốc chí làm việc nhân đức thì không còn làm ác. Đó không phải là lí đương nhiên sao.
Câu hỏi 2: tự đều đúng, không còn nghi ngờ nữa. Nhưng mỗi quốc gia trên cuộc đời này đều có một loại chữ, thế thì cõi trời cũng phải có những loại chữ khác nhau để mọi người ai đọc cũng hiểu. Nếu mắt phàm đọc được, há trên trời phải phục vụ những loại chữ viết khác nhau cho mọi người sao?
Đáp: Mơ được thi đỗ bảng thi nhà trời là do tâm mình cảm nhận được. Tâm mình đọc được chữ của vùng này thì đó không phải là chữ của nhà trời, mà chữ mình nhìn thấy là chữ của địa phương mình. Giống như trong mơ nghe tiếng quỉ thần nói, người phương Nam nằm mơ thì âm thanh của người phương Nam, người phương Bắc mơ thì tiếng nói như vùng phương Bắc.
Câu hỏi 3: Vợ chồng yêu thương nhau thì sau này chết đi có được làm vợ chồng nữa hay không?
Đáp: Như bèo trôi nổi trên nước, những loài chim trong rừng, duyên đến thì gặp nhau, hết duyên thì xa nhau.
Câu hỏi 4: Kiếp trước có nhân duyên với nhau nên kiếp này mới làm vợ chồng của nhau. Đã là vợ chồng của nhau thì nhân duyên đó càng nặng hơn, sao đời sau lại không được gặp nhau?
Đáp: Chắc gì cả hai người có thể được làm người, cho dù được làm người cả hai đi nữa thì chắc gì tuổi tác của họ tương đương với nhau, phúc đức ngang nhau, ở gần nhau, một người là nam, một người là nữ không.
Câu hỏi 5: Phước đức của tầng trời thứ sáu, cõi trời càng cao thì càng nhiều. Nhưng tâm dâm dục của tầng trời này càng lên cao càng giảm bớt. Đó là lẽ thường, nhưng ai thấy cảnh đó?
Đáp: Những lời nói thiện lương của những người ở cõi trời tất sẽ ứng nghiệm nơi người đời. Hãy xem những người ít ham muốn dâm dục thường hưởng nhiều phúc đức, người ham mê nơi sắc dục thường gặp tai hoạ, thì có thể hiểu được. Nếu cho rằng phải nhìn thấy mới tin 6thì người đó hãy còn kém cõi lắm.
Câu hỏi 6: Tâm nghĩ đến dục lạc của người ở tầng trời thứ sáu tuy càng lúc càng nhẹ, không biết cuối cùng hưởng hết phước ở đó, họ có đoạ lạc không? Đáp: Hễ có lòng dục, không ai là không đoạ lạc. Kinh Chính pháp niệm xứ viết: Sự trói buộc lớn nhất của cõi trời không gì hơn sắc dục. Một khi họ bị nữ nhân trói buộc sẽ bị rơi vào ba đường ác.
Câu hỏi 7: Bậc La hán giáo hoá ở cõi đời đôi lúc phải hoá thân thành người có vợ, sao họ không bị nghiệp báo?
Đáp: Những việc sai trái là do tâm tạo nên, La hán là bậc đã cắt đứt tình cảm ham muốn người đời thì phiền não nào trói buộc được các vị. Giống như áo quần, lúc nào cũng được mang trên thân người nữ, không nghĩ đến người nữ thì quần áo há có tội gì đâu.
Câu hỏi 8: Những người tu theo đạo tiên, thường tìm những phương thuốc, họ nói đó là để được sống mãi, có nên tin không?
Đáp: Tuy thần tiên được sống trong bảy cõi nhưng vẫn chưa vượt ra khỏi sinh tử vì thế không được giải thoát thanh tịnh nên không thể đạt đến mức độ không sinh diệt. Huống nữa sống buông thả trong dâm dục mà cầu được sống mãi. Trong đời này che mắt mọi người, lừa gạt cuộc đời, chắc chắn đời sau sẽ bị đoạ vào địa ngục, đó là hạng người này.
Câu hỏi 9: Chuyện dâm dục ô uế với thuật trường sinh tất nhiên khác nhau một trời một vực. Sao một người làm loạn nhà Đường mấy làn như Dương quí Phi, sau khi chết sao lại được thành tiên?
Đáp: Ai thấy bà thành tiên chưa, nếu có phước đời trước mà được thành tiên thì khi hết phước cũng đoạ vào đường ác. Cổ đức nói: Cho dù được thành tiên, cũng như con quỉ giữ xác chết. Đã đủ để hâm mộ chưa.
Câu hỏi 10: Điện Thất tịch trường sinh, nửa đêm nghe tiếng này. Đó là những lời đầy ngụ ý của người xưa, nhưng chuyện Lưu Nguyễn lạc lối vào động Thiên thai, người con gái chăn trâu hẹn nhau nơi Tiêu hán, là những câu chuyện thế nào?
Đáp: Đây là những câu chuyện được dã sử truyền lại. Khi người ở cõi trời thứ sáu nổi lên lòng ham muốn, so với lòng ham muốn của người đời khác nhau một trời một vực. Nếu cứ tin vào những câu chuyện dã sử kể lại thì có khác gì những cảnh đời đen bạc của phàm phu, những người đời sau tô vẽ, thêm thắt, rồi đùa cợt với những thần nữ, không kính những người nhà trời thì sẽ mắc nghiệp miệng không kể hết.
Tu tập để khỏi bị mê mờ, mười câu hỏi, mười câu trả lời.
Câu hỏi 1: Ngăn ngừa dâm dục là việc khó, nhưng việc thực hiện cũng chi tiết, nhiều vấn đề, liệu có làm khó người thực hiện không?
Đáp: Cứ theo trung đạo, người có khả năng chừng nào thì làm chừng đó. Nhà Nho có ba trăm lễ nghi, ba nghìn oai nghi. Nhà Phật có ba nghìn oai nghi, tám vạn tế hạnh. Đâu phải qui định cho một người.
Câu hỏi 2: Người quân tử không được đến gần thanh sắc, không đến gần, chẳng qua là cách nói “nhạt” mà thôi. Nếu so sánh việc này với rắn độc hổ dữ e hơi quá lời?
Đáp: Những người chết bởi rắn độc cọp dữ, trong nhìn người hi vọng còn sống được một hai, nhưng những người chết bởi dâm dục thì mười người đã chết hết tám chín. So sánh như thế nên mới nói nguy hiểm hơn rắn độc hổ dữ.
Câu hỏi 3: Đề phòng để giữ cương thường danh giáo không gì hơn giữ phép tắc. Nam nữ phải rặt ròi, không phải phép không nhìn, thì có thể ngăn ngừa được dâm dục. Cần gì phải quán tưởng không sạch để nghĩ đến sự ô nhiễm của việc này?
Đáp: Quan hệ nam nữ là thứ mong muốn lớn nhất của loài người. Khi lòng dục nổi lên thì khó ngăn chận, cho dù có dao kiếm ngay trước mặt, vạc đỉnh sau lưng cũng khó giữ chân mọt vài người. Nếu chỉ nhờ vào một vài lời dạy của Thánh hiền để lòng dâm dục của họ sạch sẽ trở lại thì trong nghìn vạn người khó cứu được một hai. Với lại giáo lí có thể khuyên răn mọi người, giúp đỡ người đứng đầu một nước giáo hoá mọi người thì không gì hơn triết lí nhân quả. Khi lòng dâm dục nổi lên, tuy tận mắt nhìn thấy kết quả nhưng họ không thể cắt đứt tận gốc rễ dâm dục, chỉ có hai chữ “không sạch” mới có thể tận diệt được dâm dục. Vì thế mới nói cấm được mười phần không bằng giảm một phần là vậy. Luận việc ngăn chặn dâm dục, muốn cắt đứt nó phải lấy phép quán không sạch làm mục tiêu hướng đến,
Câu hỏi 4: Những phép quán như Không sạch, Chín phép quán… Người tại gia tất nhiên phải tu tập. Nhưng những vị hướng đến quả vị cao nhất thì sẽ được trí tuệ hiện tiền, tự phá phiền não, cần gì phải học những pháp môn Tiểu thừa này?
Đáp: Đạo lớn tuy không chấp chặt không buông bỏ nhưng đối với người mới vào đạo có người thích kẻ chán. Đạii sư Thiên thai nói: Tuy quán Không sạch là phép quán sơ khỏi nhưng có thể thành tựu việc lớn. Như người sắp chết đuối trong biển, nhờ nước mà bơi qua. Từ phép quán này mà được trí tuệ lớn, từ đó mà sinh qua được nước trang nghiêm của Phật. Những người thường quán không sạch thì được tịnh n ghiệp. Ngày xưa đức Thế tôn nói về bảy cách diệt tội, trong đó cách thứ tư nói: Những người đệ tử trong đời mạt pháp không thích tu tập pháp quán Không sạch (chi tiết trong kinh Ma ha ma da) . Nên biết những người thâm hiểu Phật pháp mới tu tập phép quán tưởng này. Kinh Đại bát nhã nói rất chi tiết về cách quán tưởng tử thi, xương trắng… Rồi kết luận: Đây là tướng Bồ tát Đại thừa. Há xem phép quán này là Tiểu thừa sao.
Câu hỏi 5: Sắc đẹp trong đời so với một xác chết trương sình tất nhiên là hai hình dáng khác nhau, sao quán tưởng giống nhau?
Đáp: Tuy hình dáng khác nhau nhưng thực ra không phải hai hiện tượng. Nếu một người chết đột ngột vào ngày hè nóng bức, để một đêm là đã bốc mùi, hai ba hôm sau đã xuất hiện dòi bò. Hình dáng yêu kiều ẻo lả của người kia chẳng qua là một hình dáng giả dối trước mắt mà thôi.
Câu hỏi 6: Thân thịt hôi hám, tất nhiên không phải bàn cãi nữa. Nhưng nếu nói khắp cả cơ thể có tám mươi thứ trùng thì tôi chưa tin?
Đáp: Phật xem một bát nước có tám vạn con vi trùng, huống gì có thể hôi hám này. Nếu nói cơ thể người đang sống không có trùng thì loại ruồi nhặng cũng không có trùng sao.
Câu hỏi 7: Trong chương thọ trì có nói đến những người làm quan, người ở nhà… chia thành mấy điều như trị nước, bình thiên hạ, cả đoạn lớn như thế, nhưng trong đó không kết nối liên tục với nhau?
Đáp: Sau mỗi khoa, điều, nói phần nhiều thuộc chuyện gì đó, chứ không nói tất cả đều thuộc chuyện gì. Huống gì người xưa cần lấy nội dung chứ không lệ thuộc chữ nghĩa, chương đoạn, chỉ nói đại khái, tóm tắt. Tăng tử giải thích ý chính ma nói tâm rộng thể lớn, mà không nề hà đến thân tâm hỗn tạp. Giải thích tân dân mà dẫn chứng nhật tân hựu tân, không câu nệ chuyện ai di chuyển đức sáng. Nếu muốn so sánh chi tiết nên đào sâu hơn.
Câu hỏi 8: Trong chưng thọ trì có thể nói bao trùn tất cả hai chữ công đức, sao lại còn chia làm việc này là có tội làm việc kia thì có công, khiến cho mọi người không rò ràng việc khuyên răn?
Đáp: Công hay tội đều do tâm tạo ra. Cùng là việc thiện thì người phát tâm lớn thì công đức lớn, phát tâm nhỏ thì công đức nhỏ. Cùng là việc ác, lòng yêu thương nặng nề thì tội nặng hơn, lòng yêu thương nhẹ hơn thì tội cũng nhẹ hơn. Giống như đồ đựng của chư thiên giống nhau nhưng thức ăn trong đó có ngon dở khác nhau. Ba con thú cùng vượt sông, ngưng độ nông cạn khác nhau, sao lại giống nhau tất cả được, suy đoán như nhau được.
Câu hỏi 9: Trong giới Tỉ kheo ni cũng có những người dâm đãng, giả làm ni cô cùng ở lộn xộn rồi lôi kéo con gái nhà lành. Trong chương trừ diệt những điều bậy bạ, trong khoa Tại gia sao lại để lại điều này?
Đáp: Nếu họ là gái ngoan thì không sợ bị lôi kéo, nếu họ là người dễ bị lôi léo tì đâu phải chỉ mỗi Ni cô. Cả nghìn người trong số họ mới thấy một người dâm đãng, nhân đó mà huỷ báng Phật pháp, coi thường người xuất gia thì chẳng khác nào một nhà bị cháy mà cấm tất cả mọi người nổi lửa vậy, đó là người có trí hay không trí.
Câu hỏi 10: Khi phụ nữ đến chùa để lễ bái hay nghe giảng pháp thường bị những người gàn dỡ để mắt, ngăn cản không cho đi. Thấy chương trị gia , mục chỉnh đốn người phụ nữ, vẫn nói đến chuyện này?
Đáp: Những người Phật tử nữ ở nhà chỉ thờ Phật, không muốn ra ngoài, như thế là không nên. Tuy thể ta phải xem tuổi tác họ, xem họ là người vùng nào, họ thuộc thành phần nào trong xã hội. Nếu họ thực sự một lòng theo Phật thì nên phải dạy họ tuân thủ tuyệt đối mười lăm điều trong mục chỉnh đốn người phụ nữ. Tất nhiên việc việc dạy dỗ phải xem xét mặt thời gian, xem hành động của họ, có gì không đúng với lễ nghi không, rồi nhân đó để cấm đoán họ. Giống phép tắc ngoài đời, đó là giáo pháp nhà Phật. Nếu để những người nữ đến lúc già chết mà không được ân huệ thì kiếp sau khó thoát khỏi quả báo làm thân người nữ.
Những khác biệt trong thời kì mang thai, mười hai câu hỏi, mười hai câu trả lời.
Câu hỏi 1: Trước khi nam nữ chưa quan hệ, họ chưa sinh đẻ lần nào. Nhưng khi đã ăn ở với nhau thì có con cái. Xin hỏi người đầu thai đó hàng ngày ở cạnh đôi nam nữ, xem mọi động tĩnh của đôi trai gái hay ngẫu nhiên họ đầu thai?
Đáp: Nhân duyên nghiệp báo là không thể nghĩ hay bàn luận được. Nếu nghiệp duyên của đứa bé sẽ làm con đôi vợ chồng đó thì thần thưc đang ở xa hành nghìn thế giới, khi nam nữ đang gần gũi với nhau thì ở chỗ đứa con đó liền thấy ánh sáng, trong nháy mắt nó liền nương ánh sáng đó để đến đầu thai, cho dù trời Đế thích cũng không ngăn được nó, núi Tu di thiết vi cũng không chặn được nó.
Câu hỏi 2: Một bức vách ngăn che, người đời không thấy không nghe. Xa nhau mấy dặm mà cũng nhanh chân tìm đến. Xa nhau hàng mấy cõi nước mà vẫn không có sự ngăn che nào, vì sao vậy? Đáp: Thứ ngăn cản mọi người đó là họ có hình dáng, cơ thể, không phải thần thức. Lí tử, người Diên lăng nói: Xương thịt về với đất, đó là mạng. Nếu là hồn phách, thì không thể mất đi được. Giống như trong mơ, đang xa nhau ngoài nghìn dặm, bỗng nhiên thức dậy thấy vẫn nằm trên giường. Cách nhau một bức tường cũng như vậy, không phải xa hay gần mà thành ra nhanh hay chậm. Thần thức đầu thai cũng y như thế.
Câu hỏi 3: Trong đời có những đôi vợ chồng hàng ngày ăn ở với nhau nhưng không con cái, có phải do thần thức chưa đến không hay số phận họ không con cái?
Đáp: Thần thức không đến tức số mạng họ không con cái. Mạng số không con cái thì thần thức tự nhiên không đến. Như kinh Tăng nhất a hàm nói: Nếu nam nữ cùng ở với nhau mà thần thức chưa đến đầu thai, hoặc thần thức đó vừa thoát ra ngoài mà nam nữ chưa đến với nhau thì không thể có thai. Nếu người nữ không ham muốn mà người nam đang rất ham muốn, hoặc người nam không ham muốn mà người nữ đang ham muốn, cũng không thể thụ thai, Nếu người nam không bệnh tật mà người nữ mang bệnh, hoặc người nam đang mang bệnh mà người nữ không bệnh tật, cũng không thể thụ thai. Pháp uyển châu lâm viết: Nếu cha mẹ là những người có nhiều phước đức mà con cái ít phước cũng không thể nhập thai, nếu cha mẹ ít phước mà con cái nhiều phước cũng không thể nhập thai. Bắt buộc, cha, mẹ, con phải bằng phước nhau mới có thể nhập thai.
Câu hỏi 4: Những đứa trẻ được sinh ra bởi cha mẹ ngẫu nhiên quan hệ với nhau, trong nghìn đứa mới được một. Đó là do số chúng không được làm con đôi vợ chồng đó hay không được làm con nên không đầu thai, hoặc đầu thai rồi mà bị giết, vì sao thế?
Đáp: Đây là cách trả nợ đời trước, con trả nợ thì mất mạng, cha mẹ phải trả nợ thì mang tiếng.
Câu hỏi 5: Một người đàn ông giàu sang lấy một người vợ nghèo hèn, hoặc một người phụ nữ giàu sang lấy một người đàn ông nghèo khổ, cả ba đều có phước đức không giống nhau, hai lại thụ thai?
Đáp: Đứa con thác sinh vì kiếp trước chưa đủ phước , hoặc chỉ được người cha giàu sang hoặc chỉ có người mẹ giàu sang, hoặc cha mẹ được con giàu sang, hoặc đứa con được làm con của cả cha lẫn mẹ giàu sang. Nhân duyên không giống nhau mà vẫn thụ thai được. Như kinh A nan khẩu giải thập nhị nhân duyên nói: Đức con do ba yếu tố để được sinh ra, một là ngày trước cha mẹ nó nợ tiền con, hai là đời trước con nợ tiền cha mẹ nó, ba là oan gia đến sinh làm con.
Câu hỏi 6: Được thác sinh, hoặc làm con nhà giàu có, hoặc làm con nhà nghèo đói, có gì khác nhau không, hay giống nhau, hay nó biết nhà kia giàu có hay nghèo khổ, hay nó hoàn toàn không biết nhà kia giàu có hay nghèo khổ?
Đáp: Khác thì có khác, nhưng biết thì không. Như luận Du già viết: Người ít phước thường sinh vào nhà nghèo khổ, lúc nó chết cho đến lúc nó được nhập thai chi nghe những âm thanh lộn xộn, hoặc nó thấy mình đang đi vào một khu rừng nhiều lau lách. Nếu nó là đứa có nhiều phước đức, được sinh vào nhà tôn quí, thì lúc đó nó chỉ nghe những tiếng êm dịu, hoặc cảm thấy im ắng… hoặc thấy mình được bay lên cung điện.
Câu hỏi 7: Khi thân trung ấm người nam nhập thai, nó thấy yêu thương người mẹ, ghét cha nó. Khi thân trung ấm người nữ nhập thai, nó thấy yêu thương người cha, không thích mẹ nó, lẽ như thế nhưng căn cứ vào đâu để nói?
Đáp: Căn cứ bào thai hướng về phía nào, thai con trai hướng về người mẹ mà xây lưng lại với người cha, thai bé gái hướng về người cha mà xây lưng lại với người mẹ. Đã có sự khác nhau về tâm thức thì hình dáng cũng làm theo. Như kinh Xử thai viết: Nếu là bé trai, nó đạp trên bụng mẹ, ngồi ở hông phải, hai tay che mặt, hướng về phía xương sống. Nếu là bé gái, ngôi ngay hông trái, hai tay che mặt, xây lưng lại xương sống.
Câu hỏi 8: Khi nam nữ gần gũi nhau thì phải chờ thần thức đến đầu thai mới thành thai. Nhưng trong đời cũng có người đang mang thai mà vẫn thấy có người vào nhà, hỏi những người đó họ nói họ mất vào đúng thời gian đó, tức là mười tháng trước người này vẫn sống, lúc cha mẹ họ ăn nằm với nhau, không lẽ có người khác thế chỗ ư? Nếu không có thân trung ấm thì không thể thành thai, nhưng nếu có thân trung ấm nhất định là một người khác, sao lại thấy họ vào nhà mình?
Đáp: Xây nhà hay xây ngục đâu cần tự mình coi thợ, kiểu cách thế nào đều làm theo qui định của người đó, khi xây xong thì người thợ xây liền về. Khi hình dáng thai đã thành rồi thì thần thức của người kia mới đến, tuy chưa hết tuổi thọ, nhưng đã định hình người được thọ thai, tự thấy mình ngày trước nợ ai thì thai người đó để thọ thai vậy.
Câu hỏi 9: Theo những gì người đời truyền tụng, thai được nhập khi sắp sinh, nhưng theo kinh điển chép lại thì thần thức đã nhập thai trước khi sinh mười tháng, sao hai thuyết không giống nhau? Đáp: Nhập thai khi sắp sinh thì trong nghìn người được một, nếu họ không phải là người có phước đức lớn từ đời trước nên đã không chịu cảnh khổ khi nằm trong bào thai. Khi cha mẹ họ mang thai thì người kia vẫn chưa chết, đến lúc gần sinh, họ chết một nơi mà thác sinh một nơi, điều này cũng có thể xảy ra. Giống như chức quan, thăng chức theo tư cách là chuyện bình thường, đề bạt theo thứ tự mới là chuyện không bình thường.
Câu hỏi 10: Những đứa con sinh đôi, khi nằm trong thai mẹ tất nhiên là có hai thân trung ấm cùng nhập thai, thế thì khi sinh họ được sinh ra một lần hay không cùng sinh?
Đáp: Có lúc đồng thời có lúc không. Nếu cả hai cùng nhập thai thì đứa ra trước làm anh, đứa ra sau làm em. Nếu không cùng lúc thì đứa sinh ra trước làm em mà đứa sinh ra sau làm anh. Cũng giống như dồn quả hồ đào vào ống tre, hạt vào trước thì ra sau. (Pháp uyển châu lâm).
Câu hỏi 11: Cùng một bào thai mà những đứa con sinh ra có đứa đẹp, đứa xấu, hoặc có đứa đen đứa trắng, không đứa nào giống đứa nào, vì sao vậy?
Đáp: Thứ nhất là do những liên quan đến kiếp trước của đứa trẻ, thứ hai do liên hệ đời này của bà mẹ. Nếu đời trước đứa trẻ là người nhẫn nhục, sống nhu hoà, thường tạo tượng Phật, gần gũi các bậc Sa môn, thì đời nay nó sẽ có thân hình xinh đẹp. Nếu đời trước nó là đứa che lấp ánh sáng nơi chỗ thờ Phật, ăn trộm đồ vật của Tam bảo, hay tranh giành, kiện tụng hay kiện tụng thay cho người khác, chê những người có hình dáng xấu hơn mình thì tự nhiên đời này nó bị xấu xí (kinh Thuyết bổn nghiệp báo và kinh Tam giới). Trong đời này nếu mẹ nó khi mang thai ở gần những nơi khói đen thì da con sinh ra màu đen, bà mẹ ở những nơi thoáng đãng thì đứa con sinh ra được trắng trẻo, nếu bà mẹ thích ăn mặn thì thì đứa con ít tóc, nếu bà mẹ thích làm những chuyện dâm dục thì đứa con sinh ra hay bị bệnh phong, nếu bà mẹ hay nhảy múa hoặc mang vác quá nặng thì những bộ phận như tay chân đứa bé sẽ bị tổn thương. (Pháp uyển châu lâm).
Câu hỏi 12: Mọi người hay nói thân thể này là do cha mẹ để lại, xin hỏi phần nào là do cha để lại, phần nào do mẹ để lại?
Đáp: Móng tay, móng chân, răng, các đốt xương, tuỷ, não, các mạch gân… Những thứ thuộc chất cứng là những thứ do cha để lại. Mắt, lưỡi, cuống họng, tim, gan, lá lách, phổi, ruột, máu… Những bộ phận mềm là do mẹ để lại. (Kinh thuyết bổn tu hạnh đạo địa).
Câu hỏi 13: Những việc thiện ác chẳng qua lúc sinh ra liền chịu lấy, một người mới chết thì cả thần thức lẫn thân xác bị mất đi, nếu có tội nghiệp đi nữa thì lấy gi chịu tội?
Đáp: Thân xác tan rã nhưng thần thức vẫn còn. Giống như cây lúa, tuy thân nó khô gãy nhưng khi hạt rơi xuống đất, gặp mùa Xuân đến, vẫn nảy mầm. Ngời tu phước thì khi chết được sinh lên cõi trời hay trở lại làm người. Người tạo nghiệp ác thì khi chết sẽ rơi vào đường ác, cũng giống như thế. Giả Nghị nói: Nghìn biến vạn hoá, chưa bao giờ có đầu mối, bỗng nhiên làm người. (Hán thư). Nguỵ Bá Khởi nói: Ba đời thần thức cũng không mất đi. (Nguỵ thư). Trương Tử Hậu nói: Người biết khi chết không mất đi, ta mới nói về tánh với họ. (Hoành cừ ngữ lục). Cái gọi là sinh tử là căn cứ trên thể xác con người để nói, không phải căn cứ trên thần thức. Nếu nói sau khi chết thần thức cũng mất theo thì chuyện Bá Ngư hoá làm gấu (Sử kí chính nghĩa), Như Ý làm chó (Hán thư), người nước Trịnh sợ ông Bá Hữu, Bàng Sinh báo oán nơi Tề nhương (Tả truyện)… những chuyện như thế đều có trước Hán minh đế, lúc đó Phật pháp vẫn chứa truyền đến Đông hạ, thế mà thuyết luân hồi đã có mặt khắp nơi trong thiên hạ rồi. Thuyết chết rồi là mất hẳn chỉ lừa được người ngu chứ làm sao làm kẻ có học thức tin được.
Câu hỏi 14: Nếu thuyết luân hồi có, sao không thấy Khổng tử nói đến?
Đáp: Khổng tử đã nói rất chi tiết đó thôi. Kinh Dịch nói: Tinh khí làm vật, thần thức biến hoá. Biết được những hiện tượng của quỉ thần là tinh thần. Sau khi chết được thọ sinh đó là thần thức. Trước khi thác thai, đã biết được những hiện tượng của nó, thì đã hiểu rõ về thuyết luân hồi rồi. Sách Trung dung nói: Thành, đó là điểm đầu và điểm cuối của một vật. Không nói điểm đầu và điểm cuối, chỉ cần thấy mọi vật tuần hoàn không bao giờ ngừng nghỉ thì biết không có thứ gì là mất hẳn. Tiếc rằng những nhà Nho sau này không chịu tìm hiểu rốt ráo mọi việc.
Câu hỏi 15: Tinh khí làm thân thể, hồn phách biến hoá, chẳng qua đó là luận về lí, nếu nói có kiếp sau thì có vẻ như hoang đường?
Đáp: Luân hồi sinh tử đó là lẽ tất nhiên của tất cả mọi người, sách vở ghi chép lại rất nhiều, không thể kể hết. Nếu cho là chuyện hoang đường thì đó là sự hoang đường chân chính. Vả lại anh không nghe chuyện Văn xương đế quân từng mười bảy đời làm Sĩ đại phu sao (Văn xương bảo huấn), không nghe Viên Án đã từng là một vị sư trong mười đời sao. (Lời tựa văn Thuỷ sám), không nghe một người sau khi chết làm Lương Võ Đế sao (Kim cương cảm ứng lục), không nghe Vương tăng là hậu thân của Tăng tử sao (Văn xương tích tự văn), Tô tử Chiêm là hậu thân của thiền sư Giới, Tăng Lỗ Công là hậu thân của Thanh Thảo Đường(Tất cả đều chép trong Tịnh độ văn).Không nghe Vĩnh Công sau khi mất là Phòng Quan(Pháp hỷ chí) Không nghe hậu thân Tốn trưởng lãolà Lý Thị Lang, hậu thân Nam am chủ là Trần Trung Túc, hậu thân của sư Tri Tạng là Trương Văn Định, hậu thân của Nghiêm thủ toà là Vương Quy Linh(đều được chép trong Trúc Song Nhị Bút và truyện của các vị đó). Không thể xem hết tất cả những nghi chép thì việc học cũng như ếch ngồi đáy giếng.
Câu hỏi 16: Như những gì ông nói, rõ ràng và có căn cứ, rất tiếc họ không thấy họ được ghi chép trong chính sử?
Đáp: Chính sử tức không phải dã sử. Chính sử có thể tin được, dã sử thì không thể tin được. Những cuốn sách như Văn xương bảo huấn đều ghi chép rõ ràng, có thể hỏi chuyện quỷ thần, đó là những cuốn vượt khỏi chính sử, ta có thể xem là những ngoại lệ. Nếu nói những người chép chính sử mới có thể tin được thì trong hai mươi mốt cuốn chính sử đều chép chuyện luân hồi trong ba đời không thể kể hết. Nay để mọi người cùng biết, xin lược thuật một vài chuyện. Như tiền thân của Dương cô là của Lý thị(chi tiết ở trang 12 quyển 34, mười bộ Tấn thư), tiền thân Lương nguyên đế là một vị sư mù(chi tiết ở trang 5 quyển 8, bộ Nam sử Lương Kỷ 3 cuốn), tiền thân Lương Thị là Lý Thứ(chi tiết ở trang 37 quyển 43, bộ Bắc sử Tề Kỷ 5 cuốn), tiền thân Lưu Hằng là Lưu Tăng Nhụ(chi tiết ở trang 5 quyển 285, Tống sử 7 bộ 4 cuốn), tiền thân Phạm Tổ Vũ là Đặng Vũ(chi tiết ở trang 12 quyển 337, Tống sử 8 bộ 4 cuốn), tiền thân Đặng Tường Chánh là Lý Thái Bạch (chi tiết ở trang 14 quyển 444, bộ Tống sử 10 bộ 3 cuốn), tiền thân Hạ Nguyên Cát là Khuất Nguyên (chuyện này có trong Hoàng Minh Thông Kỷ), không thể kể hết. Những chuyện thần tiên giáng sinh làm người như con của Thiên đế làm Tề Cao Tổ (chi tiết tại trang 5 quyển thứ 18, bộ Nam Tề Thư 4 cuốn), thần nhân thác thai làm Đường Đại Tông (chi tiết ở trang 2 quyển 77, Đường Thư 3 bộ 2 cuốn), Lai Hoà Thiên Tôn làm Tống Chân Tông (chi tiết ở trang đầu quyển 287, 7 bộ Tống sử 5 cuốn), Nam nhạc Chân Nhân là Ngu Bá Sinh (chi tiết ở trang 4 quyển 811, 5 bộ Nguyên sử 5 cuốn), Văn Xương Tinh là Lữ Trọng Thất (chi tiết ở trang đầu quyển 185, 5 bộ Nguyên sử 6 cuốn)…. Rõ ràng có thể tham khảo. Có người sau khi chết mấy ngày được sống lại, có người sau khi chết mấy năm được sống lại, kể lại đầy đủ những chuyện dưới Ẩm phủ không gì là không ứng nghiệm. Xin kể một vài chuyện: Như ông Hằng ở Trường Sa(chi tiết ở trang 6 quyển 217, bộ Hậu Hán Thư 7 quyển), Lý Nga người con gái ở Võ Lăng là đứa ở của Can Bảo(chi tiết ở trang 14 quyển 82, 2 bộ Tấn Thư 10 cuốn), người con gái dưới mộ thời Nguỵ Minh Đế là Trần Tiêu người An Ngô, đứa hầu gái của Đỗ Tích thời Tấn Huệ Đế là con gái họ Hoàng ở Đông Dương(chi tiết tại trang 25 đến 29 quyển 34, bộ Tống Thư 10 cuốn). Đời Thuần Hy thứ 13 những người kéo nhau đến Kinh đô(chi tiết ở trang 23 quyển 62, 2 bộ Tống Sử 2 cuốn), những chuyện như thế đều có thể thấy rõ nguồn gốc. Còn những chuyện những người đàn ông ngay đời này biến thành những loài vật khác như Ngưu Viên Hậu Hán Công hoá cọp(chi tiết ở phần Hoài Nam Tử trang 20 quyển 89, 3 bộ Hậu Hán Thư 1 cuốn), ông già ở Hoắc Châu biến thành mãnh thú (chi tiết ở trang 18 quyển 23, bộ Tuỳ Thư 8 cuốn). Năm Càn Đạo thứ năm, một người ở Hàm Tương hoá làm hổ (chi tiết ở trang 23 quyển 62, 2 bộ Tống Sử 2 cuốn). Người con gái ngay trong đời biến thành những loài vật khác như bà mẹ họ Hoàng ở Giang Hạ biến thành rùa (chi tiết ở trang 6 quyển 27, bộ Hậu Hán Thư 7 cuốn), mẹ ^ của Tống Sỹ Tông ở Thanh Hà hoá làm ba ba (chi tiết ở trang 24 quyển 34, bộ Tống Thư 10 cuốn). Đời trước lại làm vợ chồng với nhau như con gái nhà Lương thời Tấn Huệ Đế (chi tiết ở trang 27 quyển 34, bộ Tống Thư 10 cuốn), người phụ nữ họ Lương cuối đời Tống (chi tiết ở trang 50 quyển 460, 10 bộ Tống Sử 15 cuốn), những người như vậy được ghi chép rất rõ ràng thậm chí người nhà trời làm Thuỷ Tổ nhà Bắc Nguỵ(chi tiết ở trang 2 quyển, bộ Nguỵ Thư 1 cuốn). Hàn Cầm làm vua Diêm La ở Ẩm phủ (chi tiết ở trang 2 quyển 52, 2 bộ Tuỳ Thư 4 cuốn), chuyện Tân Nha xây chùa mà báo ứng đến Thiên cung (chi tiết ở trang 5 quyển 75, 2 bộ Tuỳ Thư 8 cuốn), chuyện Nhu Nhan Bảo niệm Phật tụng kinh mà được vãng sanh tịnh độ(chi tiết ở trang 21 quyển 17, bộ Bắc Sử 6 cuốn), Vương Tân sửa chùa tìm thấy được tấm bia đời trước của mình (chi tiết ở trang 25 quyển 276, 7 bộ Tống Sử 3 cuốn), Thái Hưng thiết trai được thần Tăng tới dự(chi tiết ở trang 4 quyển 17, bộ Bắc Sử 6 cuốn), nghe mùi hương trong nhà mà Từ Hiếu Khắc được vãng sanh(chi tiết ở trang 14 quyển 26, bộ Trần Thư 4 cuốn), chuyện thề ngồi mà hoá trong quan tài rỗngcủa Lục Pháp Hoà(chi tiết ở trang 5 quyển 32, bộ Bắc Tề Thư 6 cuốn), Đang bị trói trong ngục mà vẫn tụng kinh, Ngu Cảnh Dục tự thoát(chi tiết ở trang 27, quyển 33, 2 bộ Bắc sử, 1 cuốn), bắt đầu ăn chay niệm Phật mà mắt ông nội của Trương Hiếu được sáng trở lại(chi tiết ở trang 9, quyển 84, 3 bộ Bắc sử, 6 cuốn)… Đều được viết trong những cuốn sử quốc gia bởi những nhà Nho có tiếng, há không đủ làm bằng chứng sao. Than ôi, ngoài quả đất này, những chuyện kì lạ đã nhiều, mà trong lục hợp, những chuyện lạ lùng cũng không ít. Những người đời này sinh nơi chân trời góc bể, thấy những người dung tục, đọc chưa hết những sách thế tục, sống chưa hết đời mà nghiệp lực đã đến. Chưa hết chuyện cưới xin mà chịu cảnh cô đơn, giống như sống không biết đi đâu, chết không biết về đâu. Mỗi ngày đều ở trong luân hồi nhưng không tin lí thuyết luân hồi, thật đáng thương thay.
Câu hỏi 17: Thuyết luân hồi tất nhiên rất rõ ràng, nhưng những điều tôi nói là từcuốn sách của một tiên sinh viết lại, không phải không có căn cứ. Tiên sinh đó nói cơ thể người chết tan rã thì thần thức họ cũng bay mất. Người được thác sanh là do bám vào hơi người đang sống nên không mất đi nữa?
Đáp: Ông đã từng đọc sách Kim Đằng chưa? Võ Vương mắc bệnh, Chu Công xin lấy thân mình để thay thế, bèn nói với Tam Vương: Lòng nhân của tôi có thể bằng cha tôi, đa tài đa nghệ có thể thờ quỷ thần. Nếu theo thuyết đoạn diệt thì Chu Công thay Võ Vương để chết thì cơ thể cũng tan rã, thần thức đã phân tán, tuy đa tài đa nghệ nhưng không thể tồn tại, lấy gì để để thờ cúng tổ tiên. Vả lại tổ tiên cũng đã tiêu tan lâu rồi lấy gì trở lại để Chu Công thờ cúng. Huống việc cúng tế là việc các bậc tiên thánh coi trọng, nếu tổ tông đã mất hết thì thức ăn ngon ngọt đều cúng cho quỉ thần, đó là điều các bậc Tiên thánh đã cảnh giác việc hoang đường. Nếu nói lời của tiên sinh đó không thể không tin thì những lời của Nghiêu, Thuấn, Chu, Khổng càng không thể tin. Nếu nói những lời của Chu, Khổng không đáng tin cậy thì làm gì có ông tiên sinh nào đó. Không những thế, nếu tiên sinh đó mất đi, thì đời này ai theo thuyết đoạn diệt của tiên sinh đó, tuy tiên sinh đó là người hiền đi nữa thì ngày nay cũng đã không còn, hai kì Xuân Thu không cần phải cúng tế. Nếu ngày nay vẫn cúng tế hai kì Xuân Thu thì lời dạy của tiên sinh đó không còn được tuân theo trong thời đại này nữa, thì lấy gì để làm cho mọi người tin theo. Nếu nói người được thác sinh ngẫu nhiên không mất đi thì tất cả mọi người ở đây đều bỗng nhiên mà có ư, tôi không thể lí giải những lời dạy của ông ấy.
Câu hỏi 18: Chuyện cúng tế, tiên sinh nọ cũng thường đề cập, cho rằng con cháu là linh khí của ông bà, vì khí hợp khí nên tìm đến nhau?
Đáp: Thế tất cả núi sông đều không phải là con cháu của tổ tiên họ nên không thể tìm đến nhau được ư. Mạnh tử nói: Một người cúng tế thì trăm vị thần cùng hưởng. Thế Thuấn, Vũ có phải con cháu của trăm thần không. Vả lại khi người chết đã tiêu tan hết thì lấy gì để báo ứng, những chuyện khích lệ để tu thân, việc phấn đấu một đời người cũng bằng những kẻ đam mê ái dục, chạy theo lợi dưỡng, buông thả rồi cuối cùng được khỏi tội, trở thành mưu kế của họ ư. Luận ngữ nói: Nếu không có báo ứng thiện ác thù tạo vật lấy gì để sống như Nhan Uyên, nếu không có những chuyện luân hồi, quỉ giữ ngục Thượng đế đâu chỉ sinh ra một Tào Tháo. Huống gì nhân tâm thế đạo ngày càng suy đồi, đem chuyện hoạ phước ra nói chưa chắc đã cứu vãn một trong nghìn vạn, lại chỉ mọi người không sợ sệt thì không khác gì sông đã chảy mà không lo tu bổ đê điều, nhà sắp sập mà còn đục chân tường.
Sự khác nhau giữa thân trung ấm, bảy câu hỏi, bảy câu trả lời.
Câu hỏi 1: Kinh gọi là thân trung ấm, là nói đến thân nào?
Đáp: Tức thần thức vậy. Như kinh Niết bàn nói: Khi một người sắp mất, thân quyến họ gào khóc, người chết kinh sợ, không thể làm chủ được mình, trong lúc đó những việc thiện ác mà họ đã tạo khi đang sống đều hiện ra trước mắt. Sau khi hơi nóng trong người hết, thân ngũ ấm trước đó mất đi, thân trung ấm hiện tại liền sinh, sau khi nhập thai thì thân trung ấm hiện tại mất đi và lúc đó thân trung ấm tương lai sẽ sinh ra. Giống như khi đèn sáng thì bóng tối lui mất, đèn tắt thì bóng tối hiện ra, liên tục không gián đoạn.
Câu hỏi 2: Mọi người nói ba hồn bảy phách. Một lần thác sinh thì có con quỉ giữ xác, một con quỉ chịu tội, nên tin không?
Đáp: Đây là một tập tục sai lầm lâu đời(Xem thêm Văn hiến thông khảo). Nếu quả thật như thế, thì một thác sinh thừa ra hai con quỉ, mười lần thác sinh thừa hai mươi con quỉ, một nghìn lần thừa hai nghìn con quỉ. Một người thừa hai nghìn con quỉ thì hai nghìn người thừa bốn trăm vạn con. Tích chứa lâu ngày thì nơi nào cũng có quỉ, xin hỏi những con quỉ cũ, trong tương lai sẽ ở chỗ nào, ở trong cảnh giới phàm phu mà có thể chia thành trăm ngìn thân được ư. Với lại, con quỉ nào được có phúc thác sinh, con quỉ nào không may bị chịu tội.
Câu hỏi 3: Một người chết tự nhiên đã có chủ, sao đến lúc có thân trung ấm lại thấy có những loài vật hình người như trâu ngựa, ngỗng vịt?
Đáp: Đến lúc đó họ không làm chủ bản thân mình được nữa. Giống như những cảnh tượng lộn xộn trong lúc nằm mơ, có cả các vị Thánh, Khổng tử há không biết Chu Công đã mất mấy trăm năm rồi, nhưng khi mơ thấy ông ấy, chưa chắc đã nghĩ ông ấy chết, há không biết người sống không chịu tang sao thấy mình lại ngồi trong một đám tang. Thanh Văn không vui khi ra khỏi thai, Bồ tát còn mê mờ khi xa cách cõi âm, huống gì người phàm.
Câu hỏi 4: Khi sắp mất mà lòng dục nổi lên tất nhiên bị đoạ lạc, nhưng thân trung ấm người Cồ đà ni ôm người con gái trước mặt sao cũng được sinh thiên?
Đáp: Những suy nghĩ lúc lâm chung rất quan trọng nhưng phước trời là do được tạo hàng ngày. Giống như những nhánh cây hướng sang phía Đông thì khi bị chặt nó sẽ ngã sang Đông, ngã phía Tây thì khi bị chặt nó sẽ ngã sang hướng Tây.
Câu hỏi 4: Thấy trong kinh Quán nói chín phẩm vãng sinh đều thấy hình dáng hoa sen, nhưng người Uất đơn việt trung phẩm được sinh thiên cũng nhìn thấy hoa sen, có sự khác nhau giữa hai việc đó không?
Đáp: Trong kinh Quán, mỗi phẩm như thế đều có một vị Phật đến tiếp dẫn, nhưng những người sinh lên cõi trời thì không có vị Phật đến tiếp dẫn.
Câu hỏi 5: Khi người có lòng dục vào trong thai chó ngựa vẫn thấy người con gái đẹp, nhưng người Cồ đà ni được sinh lên cõi trời cũng thấy những người con gái xinh đẹp, làm sao phân biệt được?
Đáp: Một bên là tình một bên là suy nghĩ. Những gì thuộc tưởng, suy nghĩ thì nhẹ mà trong nên được lên trên. Những gì thuộc về tình thì nặng mà đục nên phải đoạ xuống dưới. Như kinh Lăng nghiêm viết: Chỉ toàn lòng nghĩ thì có thể bay lên được, nên sinh lên các cõi trời, nếu là người có phước đức, trí tuệ, có nguyện thanh tịnh, tự nhiên họ thấy lòng mình rộng mở rồi vãng sinh đến nước Phật. Nhiều tình mà ít suy nghĩ thì làm loài tiên bay, vua các loài quỉ, hoặc những loài quỉ Dạ xoa bay được. Tình cảm và suy nghĩ bằng nhau thì không bay được mà không rơi xuống, sinh vào loài người, suy nghĩ sáng suốt thì được thông minh, tình cảm đắm chìm thì thành ngu muội. Tình nhiều ít nghĩ thì bị trôi lăn trong loài súc sinh, nặng thì thành loài có lông, nặng hơn nữa thành loài có cánh. Bảy phần tình ba phần tưởng thì chìm xuống thành loài thuỷ tộc, thân làm loài quỉ đói. Chín phần tình một phần tưởng thì rơi thẳng xuống địa ngục, nếu nhẹ thì có thời kì thoát ra, nặng quá thì không có thời kì thoát ra. Toàn là tình cảm thì rơi thẳng xuống địa ngục A tì.
Câu hỏi 6: Những người rơi vào địa ngục A tì, vừa mới bước vào đã thấy tám vạn bốn nghìn rừng kiếm như những cây báu, nhưng khi có một ngọn gió nóng đến thì tất cả biến thành ao sen. Những con sâu có miệng bằng sắt giống như những loài chim Nhạn. Nhưng những người được sinh lên các cõi trời cũng thấy rất nhiều những cảnh tượng. Làm sao phân biệt được?
Đáp: Những người khi rơi vào địa ngục, khi họ gần chết, vì nóng bức quá nên nghĩ ra những thứ như thế, khi có những thứ suy nghĩ như thế liền thấy những thứ sai lầm. Nhưng những người được sinh lên các cõi trời, thân thể của họ nhẹ nhàng, khi nóng đã có gió mát thổi đến, khi lạnh đã có hơi nóng bay đến. Như thế cũng đủ để hiểu.
Nói rõ về tánh học, bảy câu hỏi, bảy câu trả lời.
Câu hỏi 1: Quí lộ hỏi chuyện sống chết, Khổng tử từ chối trả lời, nói lảng sang chuyện khác, đó có phải là làm ra vẻ kì quái không?
Đáp: Chưa biết chuyện người sống làm sao biết chuyện người chết, đó là câu nói khơi gợi của Khổng tử, không phải từ chối một cách đường đột. Khổng tử nói: Chuyện sinh tử cũng là chuyện lớn(Trang tử). Há đó là cách làm ra vẻ kì quái ư.
Câu hỏi 2: Thuyết tánh học trong Phật giáo có phải là thuyết không thiện cũng như không phải không thiện không?
Đáp: Không thiện cũng như không phải không thiện đó là thuyết đoạn diệt của ngoan không.
Người đời không chấp có tức chấp không , không chấp vừa có vừa không liền chấp không phải có không phải không. Nên trong kinh Phật quán tam muội nêu so sánh những người này như những người mù sờ voi. Lúc sống không hề biết đến con voi, có một ông vua tập trung tất cả những người mù lại rồi nói: Các ngươi muốn biết con voi ra sao không? Tất cả những người mù đều trả lời rất muốn, vua bèn sai quản tượng dẫn đến một con voi ra giữa sân, ra lệnh cho những người mù lần lượt sờ voi, xong rồi vua hỏi: Các ngươi đã biết hình dáng con voi chưa? Những người mù đều đáp đã biết. Người sờ tai voi nói voi giống như cái thúng, người sờ trúng mũi voi nói voi giống như cây đàn, người sờ trúng ngà voi nói voi giống như cái cọc, người sờ trúng lưng voi bảo voi giống như căn phòng, người sờ trúng đùi voi bảo nó giống bức tường, người sờ trúng đuôi voi nói nó giống như cái chổi, người sờ chân voi nói nó giống như cây cột trụ. Tất cả người mù đều cho cái thấy của mình là đúng, tranh cãi không thôi rồi quay ra đánh nhau. Vua cười nói: Tất cả các ngươi đều chưa thấy rõ con voi. Cái thúng đó là tai voi, cây đàn đó là mũi voi, cây cọc đó là ngà voi, căn nhà đó là lưng voi, bức tường đó là đùi voi, cây chổi đó là đuôi voi, cột trụ đó là chân voi. Tất cả những người mù nghe vua nói, không dám cãi nhau nữa, trong ý của họ tin những gì mình nhìn thấy là sai. Người đời nói về tánh cũng như thế.
Câu hỏi 3: Vạn vật đã hình thành thì có lúc phải hoại diệt, có khởi đầu thì có kết thúc, tánh có sự sinh diệt không?
Đáp: Phàm có hình dáng thì phải có sự khởi đầu và kết thúc, có sự sinh ra và có lúc mất đi. Nhưng tánh không có hình dáng thì làm sao có sự sinh diệt.
Câu hỏi 4: Thế tánh có giống hư không không?
Đáp: Không. Cái không của hư không đó là ngoan không, cái không của sự cưỡng ép. Không trong tánh không là chân không.
Câu hỏi 5: Mắt, tai đó là hình thức, hình dáng.Thấy, nghe là thần thức. Nếu thần thức không mất đi thì người ta có thể thấy, có thể nghe. Lúc nhỏ cũng như khi lớn. Nhưng những người đã lớn tuổi, mắt đã không rõ, tai bắt đầu điếc, thì tính thấy nghe cũng già đi, như thế tức thần thức có sinh diệt?
Đáp: Mắt mờ tai điếc là do hình hài mang lại, nó không liên quan đến tính thấy nghe. Mắt thấy được, không phải tự nó mà nó phải nhờ tính thấy mới thấy được. Tai nghe được, không phải tự nó nghe mà nó phải nhờ tính nghe nó mới nghe được. Nếu nói mắt tự thấy được thì mắt người chết đang mở thì cũng phải thấy được. Sao khi nằm mơ mắt vẫn nhắm mà lại thấy vô số cảnh vật. Nếu nói tai có thể tự nó nghe thì tai người chết vẫn còn dõng lên thì phải nghe được, những người nằm mơ tai họ đang trên giường sao vẫn nghe được những âm thanh nơi chỗ khác. Làm sao nó có tính sinh diệt được.
Câu hỏi 6: Tính không sinh diệt thì tôi có biết đại khái, nhưng tánh không đến không đi thì tôi mù tịt?
Đáp: Thấy có đến có đi là do tâm sai lạc, không phải chân tính. Sự rộng lớn của chân tính có thể bao trùm cả không gian. Đại thiên thế giới đều nằm trong tính của ta, như bóng nước trên một đại dương vậy.
Câu hỏi 7: Quả báo ba đường ác cho đến việc thác sinh trở lại làm người. Theo tướng mà nói là do Diêm vương phán định, nói theo tính là do nghiệp chiêu cảm lấy. Xin hỏi đúng sai ở đâu?
Đáp: Nếu không chấp trước thì cả hai thuyết đều đúng, nếu chấp trước thì cả hai thuyết đều sai. Giống như hai vợ chồng sinh được đứa con, nếu cả hai vợ chồng vô tâm, nói: Đứa con này là con của vợ chồng tôi thì không ai tổn thương cả, nhưng nếu hai vợ chồng tranh cãi, ai cũng cho rằng đó là con của tôi, không phải người kia sinh thì cuối cùng không ai đúng cả.
Nguyên nhân dẫn đến các đường ác, mười câu hỏi, mười câu trả lời.
Câu hỏi 1: Sinh làm bồ câu, chim sẻ là do đời trước dâm dục nên đời này làm những loại chim có tính dâm dục. Nhưng chim Nhạn một khi mất bạn tình thì đến chết vẫn không kết bạn với những con khác. Đời trước không dâm dục thì đã quá rõ, nhưng sao khi chết vẫn đoạ làm chim?
Đáp: Trong mười điều ác, dâm dục chỉ là một trong số đó. Làm mười điều ác thì sẽ đoạ làm súc sinh, do dâm dục nên đoạ làm chim sẻ hay bồ câu. Còn quả báo của chim Nhạn lẻ bầy là từ việc ác khác mà mắc qủa báo. Như luận Câu xá viết: Nếu một người tạo nghiệp thì sẽ đoạ làm súc sinh, nhưng mỗi người mỗi khác. Nói chung một người có lòng dâm dục nặng nề thì sinh trong loài bồ câu hay chim sẻ, những người hay nóng giận thì sinh làm loài rắn rết, bọ cạp, những người ngu muội thì sinh làm heo dê, hay con ong, những người kiêu mạn thì sinh vào loài hổ báo hay sư tử, những người hay đùa giỡn thì sinh làm khỉ vượn, những người keo kiệt thì sẽ làm chó đói.
Câu hỏi 2: Nếu một người tạo nghiệp thì sẽ vào thai loài súc sinh, lúc đó họ có biết mình làm loài súc sinh không?
Đáp: Đến lúc đó họ có làm chủ được mình đâu.
Câu hỏi 3: Sao lúc chết họ không làm chủ được mình?
Đáp: Khi sống có bao giờ làm chủ được mình đâu. Cùng có một người con gái đẹp mà người có tính dâm dục thấy liền yêu thương đến tận xương tuỷ, người đàn bà có tâm ghen ghét lại thấy tức giận đến tận xương tuỷ. Đời này đã như thế huống gì sau khi chết rồi.
Câu hỏi 4: Ngày xưa có vị vua cõi trời Đao lợi, tự biết mình gần chết, sắp đầu thai vào con lừa, liền nhất tâm qui y Tam bảo, liền đoạ thai, tiếp tục làm vua cõi trờ i(Kinh Pháp cú dụ). Nên hiểu thế nào?
Đáp: Đó là do phước đời trước quá sâu nặng nên được cứu vãn. Nếu không như thế, cho dù con lợn trước mặt cũng xem như cô gái đẹp, mùi hôi của phẩn dãi cũng xem như hương gỗ chiên đàn.
Câu hỏi 5: Người đời đông, chuyện đời nhiều, nếu ghi chép tất cả những chi tiết nhỏ nhặt thì mực chất như núi cũng không đủ dùng, vua Diêm la làm sao phải phí sức để ghi chép mọi việc như thế?
Đáp: Hết thảy đều do tâm tạo, tâm có thể tạo ra thiên cung, tâm cũng có thể xây địa ngục. Tất cả những cung điện trên cõi trời tuy nhiều nhưng không phải do xây dựng mà có , những người sinh vào đó tự nhiên cảm thấy an vui. Ngục Nê lê tuy có nhiều dụng cụ để hành hình những không phải do rèn đúc mà có, những người đoạ vào đó tự nhiên chịu khổ.
Câu hỏi 6: Những thống khổ lúc sống là từ thân thể, sau khi chết không có hình thể nữa, ai sẽ chịu khổ?
Đáp: Đau khổ về mặt tinh thần, không phải nơi thân thể, nếu đau khổ về hình thể khi sống thì khi chết cũng người đó cũng đau khổ.
Câu hỏi 7: Một người tạo nghiệp ác tất nhiên sẽ bị trừng trị thích đáng, nhưng quỉ vương hay lính ngục làm ác thì có địa ngục nào nữa để trị tội họ?
Đáp: Nếu luận về sự, giống như lính ngục vâng lệnh đòn roi người khác, họ sẽ không làm những việc để bị đòn roi nữa. Còn nói về lí, những lính ngục, nếu họ tạo nghiệp ác thì tự tâm họ sẽ hiện ra cảnh ác.
Câu hỏi 8: Nếu đã có địa ngục thì nên khiến cho mỗi người đời đều tận mắt nhìn thấy mới có thể tin?
Đáp: Những người sau này được tận mắt nhìn thấy, ở đâu cũng có, nhưng tiếc là những người tận mắt nhìn thấy đó lại không được trở về.
Câu hỏi 9: Dùng ngón chân nhấn xuống đất, Như lai có thể khiến cho cả đại thiên thế giới biến thành vàng ròng (Kinh Duy ma cật), nếu ngài đã có thần thông như thế thì có thể phá tất cả địa ngục trong mười phương, khiến những người chịu khổ được sinh về nước Phật?
Đáp: Một người thầy thuốc giỏi có thể trị được bệnh nan y chứ không thể cứu một người bệnh không chịu uống thuốc. Người tạo ác nghiệp sẽ tự chịu lấy kết quả khổ, Bồ tát cũng không thể cứu họ thoát khỏi, cũng giống như một người nghèo đang đói bụng, người giàu có đến mấy cũng không thể ăn thay để người nghèo kia no được.
Câu hỏi 10: Định nghiệp tất nhiên khó tránh, pháp Phật cũng vô dụng, nhưng trong kinh điển nói cứu độ vô lượng, vì sao vậy?
Đáp: Tất cả những khổ não trong cuộc đời đều vì ác nghiệp mà có. Khuyên người đừng tạo ác nghiệp là để cắt đứt nguồn gốc khổ não, không phải cứu độ là gì.
Nguồn gốc của việc cưới gã, tám câu hỏi, tám câu trả lời.
Câu hỏi 1: Việc dâm dục đứng đầu mọi điều ác thì nhưng bậc vua Thánh cai trị cuộc đời nên dẹp bỏ nó đi, sao vua Phục hi lập người mai mối, kết hợp hai họ, vì sao vậy?
Đáp: Đó là bởi làm cho mọi người bớt dâm dục. Nếu không bày lễ cưới gã thì không kể nam hay nữ đều giống loài súc vật, những đứa con đẻ ra đều bỏ đi, không cần nuôi dưỡng. Vì thế nên mới bày ra con đường để qui định việc cưới gã, khiến cho người con trai cưới đúng vợ mình, người con gái lấy đúng chồng mình, cha mẹ nuôi đúng con cái mình, đó là để thống nhất, không còn loạn lạc.
Câu hỏi 2: Để quyền tác hợp cho bà mai, vì sao vậy?
Đáp: Sợ những kẻ xảo trá lấy người gian thế vào người ngay rồi làm mọi người tranh giành lẫn nhau.
Câu hỏi 3: Bày ra những lễ như vấn danh, nạp cát, thỉnh kì… để làm gì?
Đáp: Sợ những người đời sau ăn ở với nhau hỗn tạp, nên phải phân chia chi tiết như thế.
Câu hỏi 4: Nguyên nhân cưới gã tôi đã rõ, nhưng đạo vợ chồng có từ lúc nào?
Đáp: Theo kinh Nhân duyên khởi thế thì từ kiếp Sơ thì tất cả chúng sinh đều nhờ ánh sáng che khuất thiên hạ, tự nhiên hoá sinh, không phải nằm trong bụng mẹ. Đến lúc ăn chất đất quá lâu, thì hình dáng bắt đầu thô xấu rồi có các đốt xương và mạch máu và chia thành người nam, nữ. Sau đó có tình cảm với nhau, đây chính là đạo nam nữ, vợ chồng.
Câu hỏi 5: Nhà Nho cho rằng, trong ba việc bất hiếu, không con nối dõi là tội nặng nhất. Phật lại dạy từ bỏ người thân đi xuất gia, cho rằng nhà cửa là thứ buộc ràng. Hai đạo Nho, Thích sao cách nhau xa như thế?
Đáp: Làm việc thiện có nhiều cách, nhưng cuối cùng đều về một chỗ. Trình độ người đời khác nhau, có những người pháp Phật không thể hoán cải được nhưng Nho giáo có thể giáo hoá được, có những người Nho giáo không giáo hoá được nhưng Phật giáo lại giáo hoá được. Thế nên cả ba tôn giáo đều đồng tâm hợp lực, nhưng không thể không chia việc cho mỗi tôn giáo. Mỗi tôn giáo đều lập một khu vực, mỗi tôn giáo đều lập một phương pháp để giáo hoá.
Tuy có ba tên gọi khác nhau nhưng chỉ là một. Giống như ba ông thầy thuốc giỏi đều muốn trị bệnh, nhưng người bệnh không giống nhau, nếu ba người thầy thuốc đều làm một việc thì việc cứu giúp không được nhiều. Như khi kiếp đao binh đến, có ba vị trưởng giả, mỗi vị đều muốn cứu người ra khỏi thành, nếu chỉ mở một cửa thành thì những người được thoát không nhiều. Vì thế họ phải tận dụng đạo của Khổng tử, đức Thích ca thấy thế vui mừng, tận dụng được đạo của Thích ca, đức Khổng tử thấy thế cũng vui mừng . Nếu nói theo lời dạy của ta mới tốt, thì vui, không theo lời dạy của ta thì không tốt, liền buồn giận, thì những vị đó không phải là Phật là Thánh. Lí sĩ Khiêm đời nhà Tuỳ nói: Ba tôn giáo như ba thứ ánh sáng, há có thể thiếu mất một(Tuỳ thư). Những người đời sau bàn luận lung tung, cuối cùng tự xây nên những thành luỹ ngăn cách cho mình.
Câu hỏi 6: Nếu nghĩ những vị Thánh như Phục hi, Hoàng đế đều là những vị Bồ tát ứng hoá, không biết có đúng không?
Đáp: Cũng có thể có, con người bắn cung giỏi phải học uốn cong. Con người luyện kim giỏi phải biết cách thuộc da. Giáo lí đạo Phật cũng quyền có thật, có đốn có tiệm. Người đã lìa tục xuất gia đó là tu tập đốn giáo và thật giáo, phối hợp hai tính đó là tu tập tiệm giáo với quyền giáo. Giống như một người không thể ăn chay niệm Phật, trước hết phải khuyên họ ăn thịt tam tịnh(không nghe giết, không thấy giết và không bảo giết). Về vấn đề này, cách dạy của các bậc Thánh nhân của cả ba tôn giáo giống nhau, lí thuyết cũng giống nhau.
Câu hỏi 7: Mọi người trong thiên hạ đều tuyệt dục thì trăm năm sau cả thiên hạ không còn loài người nữa, lúc đó phải làm sao?
Đáp: Cõi đời ô trọc này, đến hai mươi tuổi mà nam nữ chưa cưới gã thì cùng nhìn cùng theo nhau hết làm gì có chuyện người người tuyệt dục. Chỉ như sợ những việc nhỏ mà không thực hiện được, huống những việc khác. Ngư ông một ngày không bắt cá chỉ sợ chèo thuyền không đều, đó là chuyện lo bò trắng răng.
Câu hỏi 8: Nếu có chuyện như thế thì phải làm sao?
Đáp: Nếu thật có chuyện đó thì cả thế gian đề hoá sinh như chư thiên, không nằm trong thai mẹ.
Sám hối để được vãng sinh, bảy câu hỏi, bảy câu trả lời.
Câu hỏi 1: Nếu đã lỡ tạo nghiệp ác, ta nên đến trước Phật để sám hối hay tự tâm ta sám hối?
Đáp: Tâm là Phật, Phật chính là tâm. Sám hối trước phật không cản trở việc tự lòng mình sám hối. Tự lòng mình sám hối không trở ngại việc mình đến trước Phật để sám hối.
Câu hỏi 2: Những nghiệp dâm mình lỡ tạo trong đời này tất nhiên phải sám hối để được tiêu trừ tội lỗi. Nếu trong đời quá khứ đã phạm phải tội lỗi thì đã mờ mịt không thấy, cần gì sám hối?
Đáp: Từ nhiều đời kiếp đến ngày nay, chúng ta chúng ta đã chịu khổ trong bốn loài sáu nẻo, mỗi mỗi thân đều tạo nhiều tội lỗi. Nếu chỉ sám hối tội lỗi trong đời này mà không sám hối tội lỗi trong đời trước thì khác gì nhổ cỏ mà không nhổ tận gốc.
Câu hỏi 3: Nhân quả thiện ác, cha con cũng không chịu thay nhau được. Sám hối nghiệp ác của bản thân mình sợ cũng không hết, huống gì thay cho cả bốn loài sáu nẻo để sám hối, liệu hơi hoang đường quá không?
Đáp: Chỉ cầu lợi ích cho mình mà không nghĩ đến lợi ích người khác, đó là cái thấy của người phàm phu. Chưa cầu tự độ mà muốn độ người trước đó là tâm Bồ Tát. Vũ Tắc: Bản thân mình chịu mệt chịu đói. Khổng Tử: Người già được yên, người trẻ nhớ đến. Phạm Tử: Trước lo, sau vui. Đó là những người mực thước nhất vậy.
Câu hỏi 4: Dâm dục tất nhiên là cội gốc của sinh tử, không thể không cắt đứt. Nhưng trong phép xuất thế đó là chuyện sau khi mất, cuối đời tu tập cũng chưa muộn?
Đáp: Phàm làm chuyện gì, có sự tính toán thì thành công, không tính toán thì thất bại. Cuối đời mới tu tập thì giống như đói mới đi cầy ruộng, khát nước mới đi đào giếng. Huống sống được đến già thì những chuyện trước mắt liệu có thấy được không, cả cuộc đời chờ đến già thì được mấy người được nghỉ trước khi chết.
Câu hỏi 5: Những chúng sanh trong đời mạt pháp đều cực kỳ nghèo khổ, những lầu các cung điện ở nước Phật đều được làm bằng những thứ quý báu. Sao cái khổ cái vui lại không được quân bình. Huống gì Phật xem chúng sinh là những đứa con sao không chia đều cả mười phương để tất cả chúng sanh đều được vui?
Đáp: Giữa khổ và vui cách nhau một trời một vực, kết quả hiện tại sở dĩ như vậy là do nguyên nhân trong quá khứ. Nguyên nhân ngày trước là do cả mọi người tạo nghiệp giết hại chỉ Bồ Tát có lòng từ bi, mọi người đều đam mê sắc dục chỉ Bố Tát tu tập phạn hạnh, tất cả mọi người đều keo kiệt chỉ Bồ Tát thích bố thí. Làm thiện hay làm ác đã có sự khác nhau rõ rệt, mỗi người không thể thay thế lẫn nhau thì việc chịu sướng hay chịu khổ cũng cách nhau một trời một vực không ai có thể thay thế lẫn nhau. Giống như người có hai mắt so với người một mắt thì người có hai mắt hơn người kia, người mù mắt không nhìn thấy gì so với người một mắt là không đủ. Người có hai mắt tuy hiếu thuận nhưng cũng thể lấy con mắt thừa của mình để bù vào chỗ thiếu của người kia được.
Câu hỏi 6: Ở nhà tranh vách đất mới thấy lòng nhân của vua Nghiêu vua Thuận. Ở nhà Quỳnh đài Giao chỉ thấy lòng hiểm ác của vua Kiệt vua Trụ. Phật coi tam giới như lao ngục, hà tất dùng bảy thứ quý báu để trang nghiêm?
Đáp: Một là máu mủ của trăm họ, một là phước báu cả ba đời, nhìn cả hai thứ đó thì có thể lựa chọn được.
Câu hỏi 7: Nước Phật thanh tịnh trang nghiêm, tất nhiên đẹp đẽ hơn cõi đời nhiều lần, nhưng trong kinh nói rằng: Chưa thoát khỏi tưởng tượng thái quá nếu như tin tất cả thì e rằng hơi hoang đường?
Đáp: Lòng tin của con người chẳng qua là nhờ sự suy nghĩ hay bằng mắt thấy tai nghe, mắt chưa thấy tai chưa nghe nên gọi là hoang đường huống gì tâm chưa thể nghĩ đến. Giống như con giun chỉ biết niềm vui được ăn bùn trong mấy tấc đất mà không biết con rồng xanh bay nhảy trong biển lớn, cỡi sóng đạp gió. Giống như con bọ hung chỉ vui với mấy thứ phân giải mà không biết con đại bàng bay lên mấy tầng mây, cỡi lên mấy tầng gió.
Như Lai ứng hoá, bảy câu hỏi bảy câu trả lời.
Câu hỏi 1: Người đời sinh sản đều nhờ âm đạo, khi Bố Tát nhập thai thì vào bên hông phải, vì sao thế?
Đáp: Người phàm do lòng dục nên sinh sản nhờ âm đạo, Bồ Tát đã hết lòng dục nên nhập thai vào hông bên phải.
Câu hỏi 2: Chí Tôn trong tam giới không ai bằng vua trời. Khi đức Như Lai giáng sinh có bốn vị vua của trời Đao lợi đều cung kính nâng đỡ. Tự nhiên nói đến điều này có vẻ khoa trương lắm không?
Đáp: Trong kinh nói đến sáu đường trong đó có trời là một. Người đời thấy họ cho là cao nhất không ai bì, nhưng lấy mắt Phật mà nhìn thì họ là những người phàm phu chưa ra khỏi cuộc đời, vì thế mỗi lần đức Như Lai tuyết pháp có vô số vua trời đế thích đều cung kính đảnh lễ nghe giảng Phật pháp. Tóm lược, như kinh Hoa Nghiêm nói: Lúc đó vua trời xa thấy đức Phật đến liền dùng thần lực hoá làm toà Sư tử trên hoa sen báu, có trăm ngàn cấp bậc rất đẹp. Trăm ngàn vua trời đều cung kính đảnh lễ. Kinh Bát Nhã nói: Hết thảy trời, người, A tu la trong thế gian đều nên cúng dường. Kinh Đại Bảo Tích nói: Vua trời Tứ thiên vương, trời tầng thứ ba mươi ba, các con trời đều tung hoa lên hư không để cúng dường đức Như Lai. Kinh Liên Hoa Diện nói: Vua trời Đế Thích khi thấy Thế tôn liền trải toà cao, đảnh lễ dưới chân Phật. Kinh Phạn Võng nói: Mười tám vị trời Phạn Thiên con của trời Lục Dục, mười sáu đại quốc vương đều chắp tay nhất tâm nghe Phật tụng giới Đại thừa. Kinh Viên Giác nói: Lúc đó Đại Phạn vương, hai mươi tám vua trời từ chỗ ngồi của mình đảnh lễ dưới chân Phật. Kinh Hiền Ngu Nhân Duyên nói: Đế Thích hầu bên trái, Phạn Thiên hầu bên phải. Kinh Phổ Diệu nói: Phạn Thiên hầu bên phải, Đế Thích hầu bên trái. Kinh Tạo Tượng nói: Phạn Vương cầm phan trắng bên phải, Đế Thích cầm phất trắng đứng bên trái. Kinh Pháp Hoa nói: Những vị vua trời Phạn Thiên này đều cúi đầu lạy Phật, đi quanh trăm nghìn vòng… Những chuyện như thế không thể kể hết. Nếu phước đức của Như Lai chỉ bằng phước đức của các vị trời thì trong kinh không dám nói như thế, mà Đế Thích Phạn Thiên há để cho những thế như thế được lưu hành sao.
Câu hỏi 3: Kinh Ngọc Hoàng nói rằng khi vua trời thuyết pháp đức Phật cũng đến nghe. Thật có chuyện đó không?
Đáp: Kinh điển của đức Như Lai là do chính miệng Phật nói, đức A Nan kết tập, không một lời nào hư dối. Kinh Ngọc Hoàng là do người đời sau viết không phải do Ngọc đế tự tay soạn ra. Tuy những lời đó là muốn tôn sùng Thượng đế, tuy nhiên họ không biết rằng họ tôn sùng một người như thế mà không nghe đến sự vĩ đại của đức Phật. Cộng tất cả những người có phước đức nhiều nhất từ xưa tới nay không bằng một người trời ở cõi trời Tứ Thiên Vương, cộng tất cả những người có phước đức lớn nhất ở cõi trời Tứ Thiên Vương không bằng một người trời ở cõi trời Đao Lợi. Ngọc Hoàng Thượng đế chính là vua của cõi trời Đao Lợi. Trên cõi trời Đao Lợi lần lượt tốt đẹp hơn đến trời Tha Hoá, thuộc cõi dục có bốn giai cấp trên cõi trời Tha Hoá lần lượt tốt đẹp hơn đến cõi trời Sắc Cứu Cánh, thuộc sắc giới có mười tám giai cấp. Trên cõi trời Sắc Cứu Cánh lần lượt tốt đẹp hơn đến cõi trời Phi Phi Tưởng, thuộc sắc giới có bốn giai cấp tất cả thuộc về phàm phu chưa ra khỏi cuộc đời. Nếu thuộc dòng Thánh xuất thế có Thanh văn Tiểu thừa, từ Tu Đà Hoàn đến A La Hán có bốn giai cấp, trên đó có Duyên Giác, Độc Giác trên nữa là địa vị Bồ Tát trong địa vị Bồ Tát có mười tín, mười trú, mười hạnh, mười hồi hướng, có mấy mươi giai cấp trên đó mới được vào Sơ địa, từ Hoan hỷ địa đến Pháp vân địa lại có mười giai cấp, cuối cùng mới đến bậc Đẳng Giác, đó là ngôi vị bổ xứ, sắp thành Phật. Phật là vua pháp lớn không có ai trên nữa. Vì không có ai trên nữa há có chuyện Ngọc Hoàng thuyết pháp mà Phât lại đến nghe ư. Trong tập Chánh Hoá của Liên Đại Sư có giải thích điều này rất rõ ràng.
Câu hỏi 4: Đức Như Lai giáng đản là thời Chiêu Vương nhà Chu, khi đó Phật pháp có mặt ở nước Ân Độ gần năm trăm năm. Sao đức Khổng Tử không nghe chuyện này?
Đáp: Khổng Tử có nghe sơ lược về chuyện này. Ngày xưa khi Thái Tể hỏi Khổng Tử: Ngài có phải là một vị Thánh không? Khổng Tử đáp: Tôi không dám xưng là Thánh, người kia lại hỏi: Tam Vương Ngũ Đế, Khổng Tử cũng không trả lời, Thái tể lấy làm lạ hỏi: Vậy ai mới là Thánh? Khổng Tử thong thả đáp: Tôi nghe ở phương Tây có một vị đại Thánh nhân, không cai trị nhưng nước không loạn, không nói nhưng mọi người đều tin, không giáo hoá nhưng mọi người tự làm, bàng bạc trong dân nhưng không biết gọi tên gì(trích trong Thiên Trọng Ni sách Liệt Tử). Ai nói là không nghe.
Câu hỏi 5: Phật giáo đến thời Hán Minh Đế mới được truyền đến Đông Hạ, sao Khổng Tử biết được? Đáp: Khi đức Như Lai giáng sinh thì vùng này đã có điềm báo rồi, ngày mùng tám tháng tư năm Giáp dần đời Chiêu Vương thứ hai mươi sáu (bản Phường chép năm thứ hai mươi bốn), mặt trời có một vòng sáng, mây lành năm sắc nhập vào Thái Vi chiếu sáng ở phương Tây, quả đất chấn động, nước trong ao, giếng trào ra, vua lệnh cho Thái sứ Tô Do đoán, được quẻ Càn chín năm, Do nói: Tây phương có Thánh nhân giáng đản nhưng sau một ngàn năm giáo pháp mới đến được nơi đây. Vua lệnh khắc vào đá để ghi nhớ rồi đem đặt trước Đền Nam Giao(sách Chu thư dị ký và Bi ký chùa Bạch Mã). Những lời đức Khổng Tử nói có từ đó, nhưng giáo pháp chưa đến vùng Đông Hạ nên vẫn còn sơ lược.
Câu hỏi 6: Những gì trong sáu Kinh nói mới có thể có căn cứ, sách Liệt Tử có đủ để tin không?
Đáp: Những lời lúc sống Khổng Tử nói ra được truyền lại cho đời sau trong trăm nghìn lời thì đúng được một, ai dám bảo đảm tất cả đều được chép trong sáu kinh. Liệt Tử là người học Khổng Tử, sống rất gần với các vị Thánh nên lời nói của ông ta không phải là không có căn cứ, làm sao biết mấy trăm năm sau có pháp Phật đến nơi này mà dự báo, vả lại sao không nói những vùng khác mà chỉ nói đến phương Tây.
Câu hỏi 7: Đời Thượng Cổ, chưa có Phật mọi người ca tụng cuộc đời tốt đẹp, đời sau có Phật lại trở thành thời mạt, giáo pháp của Phật có ích lợi gì cho mọi người không?
Đáp: Chư Phật giáng sinh chỉ vì cứu độ cuộc đời ô trược. Giống như vì bóng tối mà đốt đèn không phải vì đốt đèn mới tối. Sở dĩ thiên hạ đại loạn là do hung bạo ngang ngược, không tin Phật pháp. Đã ai thấy những người kiêng uống rượu ăn mặn mà giết người cướp của chưa, những ngưới lánh thân nơi am viện mà giết vua cướp ngôi chưa. Tống Văn Đế đời nhà Lưu nói: Nếu tất cả mọi người đều nghe lời Phật giáo hoá thì trẫm ngồi để hưởng thái bình rồi (Tống Thư). Đường Thái Tông khi viết lời tựa cho cuốn Tam Tạng Thánh Giáo đã rất tôn sùng, nói với người hầu: Giáo pháp Phật rất rộng lớn, cực kỳ cao thâm. Khi Pháp sư Huyền Trang thị tịch, vua Cao Tông nói: Trẫm đã mất một báu vật quốc gia, nói rồi khóc như mưa, nghỉ thiết triều năm ngày. Vua Huyền Tông nghe sư Thần Quan luận đạo mà khen ngợi: Ẩn đức đức Phật như thế này, không phải sư thì không ai nói được, trẫm sẽ suốt đời kính ngưỡng. Thái tổ, Thái tông, Chân nhân, Cao hiếu thời nhà Tống, không ai là không quy y nơi của Phật, nghiên cứu cặ kẽ giáo pháp, hoặc giá lâm đến chùa, hoặc hỏi đạo trong cung cấm(những chuyện này được viết trong sử Đường, Tống, Kê cổ lược, Văn hiến thông Khảo, Bắc sơn lục, Trịnh cảnh trọng gia tập….) vì thế những bậc minh trí từ xưa tới nay phần nhiều quay về, tin sâu nơi thiền học, ít nhiều chứng ngộ, có thể kể tóm tắt: Hứa Huyền Độ (Tuần), Lưu Di Dân( Trình Chi), Chu Đạo Tổ (Tục Chi), Lôi Trọng Luân (Thứ Tông), Tông Thiếu Văn (Bính), Thẩm Hưu Văn (Ước), Tống Quảng Bình (Cảnh), Vương Ma Cật (Duy), Vương Hạ Khanh (Tấn), Đỗ Hoàng Đường (Hồng Tiệm), Bạch Lạc Thiên (Cư Dị), Lý Tập Chi (Tường), Bùi Trung Lập (Độ), Bùi Công Mỹ (Hưu), Lữ Thánh Công (Mông Chính), Lý Văn Tĩnh (Hàng), Vương Văn Chính (Đán), Dương Đại Niên (Ức), Doãn Sư Lỗ (Chu), Phú Trịnh Công (Bật), Văn Lộ Công (Nhan Bác), Dương Thứ Công (Kiệt), Vương Mẫn Trọng (Cổ), Triệu Thanh Hiến (Phác), Chu Liêm Khê (Đôn Di), Thiệu Nghiêu Phu (Ung), Trương An Đạo (Phương Bình), Hoàng Lỗ Trực (Đình Kiên), Trần Dinh Trung (Quyền), Trương Vô Tận (Thương Anh), Trương Tử Thiều (Cửu Thành), Trương Đức Viễn (Tuấn), Vương Hư Trung (Nhật Hưu), Phùng Tế Xuyên (Tập), Lữ Cư Nhân ( Bản Trung), Lưu Bình Sơn (Tử Huân), Lý Hán Lão (Bỉnh)… Những người kính Phật pháp, giỏi Phật lý như: Dương Thúc Tử (Cô), Vương Mậu Hoằng (Đạo), Tạ An Thạch (An), Hà Thứ Đạo (Sung), Vương Dật Thiếu (Hy Chi), Vương Văn Độ (Đán Chi), Tạ Khang Lạc (Linh Vận), Chư Quý Dã (Ai), Tiêu Thời Văn (Vũ), Phòng Kiều Linh (Huyền Linh), Đỗ Khắc Minh (Như Hối), Nguỵ Nguyên Thành (Trưng), Ngu Bá Thí (Thế Nam), Chu Đăng Thiện (Toại Lương), Nhan Lỗ Công (Chân Khanh), Lý Thái Bạch (Bạch), Lý Bộc Hầu (Bí) Liễu Tử Hậu (Tông Nguyên), Lý Duẩn Chi (Bột), Khấu La Công (Chuẩn), Phạm Văn Chính (Trọng Yêm), Hàn Nguỵ Công (Kỳ), Đỗ Khưu Công (Diển), Tăng Minh Trọng (Công lượng), hai anh em Tô Triệt Tô Thức, Lữ Hối Thúc (Công Trứ), Uông Nhan Chương (Tháo), Lý Bình Sơn (Chi Thuần), Trương Kỉnh Phu (Thức), Lữ Đông Lai (Tổ Khiêm), Lưu Tỉnh Trai (Thuỵ)… Những người có đức độ đời nay như: Triệu Tùng Sơn (Mạnh Triệu), Tống Cảnh Liêm (Liêm), Chu Tuần Như (Thầm), Từ Đại Chương (Nhất Yến), La Niệm Am (Hồng Tiên), Đường Kỉnh Xuyên (Thuận Chi), Triệu Đại Châu (Trinh Cát), Tục Đình Tuyền (Thọ Thanh), Lục Ngũ Đài (Quan Tổ), Ẩn Thu Minh (Mại), Sư Quân Thái (Huệ), Vương Hợp Châu (Thế Chinh), Tông Tử Tướng (Thần), Đặng Đình Vũ (Dĩ Tán), Phùng Cụ Khu (Mộng Trinh), Ngu Trường Nhụ (Thuần Hy), hai anh em Viên Ngọc Bàn là Tông Đạo Hoằng và Đạo Trung Đạo, hai anh em Đào Thạch quý Vọng Linh và Bách Linh, Tiêu Kỳ Viên (Hoằng), Hoàng Thận Hiên (Huy), Vương Vũ
Thái (Khẳng Đường), Chung Bá Kỉnh (Hoảng)… Được mọi người khen ngợi như hai ông Bạch Sa (Hiến Chương), Dương Minh (Thủ Nhân). Làm Tông Chủ của Đạo học nhưng những lời nói của họ đều khớp với tông chỉ đạo Phật được mọi người truyền tụng như Vương Long Khê (Cơ), La Cận Khê (Như Phương), Chu Hải Môn (Nhữ Đăng), Dương Trinh Phục (Khởi Nguyên) thường nghiên cứu sâu sắc Phật pháp. Ôi nếu pháp Phật không phải là đạo tối thượng, có ích cho việc nhà vua giáo hoá thì làm sao được những người hiền khâm phục như vậy (những sự tích thấy rải rác trong hai mươi mốt bộ sử và các tập văn, ngữ lục) những người kiêng cữ dâm dục mong làn sóng của biển dục bình yên trở lại không thể không lưu tâm đến chuyện này.
Những cuốn sách nói về việc khuyến thiện, nếu mở sách mà khiến người đọc nhăn mặt thì khó được lưu hành, người đọc mở sách mà vui mừng, tán thưởng cũng khó được lưu hành. Vì sao thế, một bên không đạt được mục đích do nội dung quá thâm thuý, một bên không đạt được mục đích do nội dung quá thiển cận. Tập sách này của Thầy tôi, mục đích là ngăn chặn dâm dục, nhưng lại khẩn thiết mong thoát khỏi sinh tử, tuy hơi cao sâu, nhưng lúc thong thả, mang những lời dạy về sinh tử tự vấn lòng mình thì mọi người không ai không có chút vướng mắc trong đó. Thấy lòng mình chưa thoát được những vướng mắc, mang sách ra, phát hiện được những điều thú vị, lại thấy tầm hiểu biết rộng rãi cũng như lòng hướng Phật khẩn thiết của tác giả trong đó. Lúc đó những người đọc nhăn mặt lại vỗ tay tán thưởng. Hiện tại chỉ có ích cho một số người, những năm tháng sau sẽ được nhiều người thưởng thức. Đó là điều có thể đoán trước được.
Môn nhân Ngu sơn, Trần Tuyên, họ Thánh lai, viết.
******
Giải thích ý nghĩa những danh từ Phật học.
Quyển 1.
Ba đường: Ba đường ác.
Vua Ưu điền: Tiếng Phạn đọc Ô đà diển na, tiếng Trung quốc dịch Xuất ái(ra khỏi tham ái), còn có cách gọi khác là Ưu đà diên, tức Ưu điền vương. Danh từ tiếng Phạn tức ngôn ngữ nước Ân độ. Kiếp Sơ là tộc người còn lại của trời Phạn thiên, nên gọi Phạn.
Bà la môn: Tiếng Trung quốc dịch Tịnh hạnh. Một trong bốn dòng họ ở Ân độ, chi tiết trong kinh Trường a hàm tứ tính.
Bát quan trai: Tức tám giới, những người Phật tử tại gia có thể thọ trì. Thời gian giới hạn trong một ngày một đêm, muốn thọ trì mỗi ngày thì phải thọ giới mỗi ngày, khi đã thọ giới rồi thì không được phá giới. Nếu có thể thọ trì rốt ráo, tuy chỉ trong một ngày một đêm vẫn quyết định sinh lên các cõi trời.
La hán: Nếu nói đầy đủ là A la hán, có ba nghĩa, thứ nhất, giết giặc phiền não, thứ hai, không thọ thân sau, thứ ba, nhận sự cúng dường của trời và người.
Sa môn: Tiếng Trung quốc dịch là siêng năng và ngưng nghỉ. Siêng tu giới định tuệ và ngưng nghỉ tham sân si.
Xá lợi: Tiếng Trung quốc dịch là thân xương hay linh cốt. Những bậc chứng quả vị bốn Thánh đều có. Hình dáng và màu sắc không nhất định, sự linh nghiệm cũng không giống nhau. Những thứ như nước, lửa, vàng, đá, đều không thể phá được.
Bồ tát: Nói đầy đủ là Bồ đề tát đoả, tiếng Trung quốc dịch giác ngộ chúng sinh. Tu chứng quả vị như đức Phật nên gọi Giác, chưa hết vô minh nên gọi là tình, hữu tình còn là danh từ chỉ chúng sinh. Bồ tát lấy đạo này để giác ngộ những chúng sinh này nên gọi giác ngộ chúng sinh.
Tám điều nhớ nghĩ: Phật, Pháp, Tăng, giới, xả bỏ, cõi trời, hơi thở ra vào, chết.
Ba cõi: Dục, Sắc, Vô sắc.
Niết bàn: Tiếng Trung quốc dịch là diệt độ. Tức được cái vui của sự vắng lặng và vượt qua bờ sinh tử. Niết còn gọi là không còn sinh lại, Bàn là không còn mất đi. Không sinh không diệt gọi là Niết bàn.
Trật: Một loại hoa có thể dệt vải, họ thân mềm, có ở nước Cao xương, ở nước Phiệt tân nó là loại thân gỗ.
Sông Hằng: Nói đầy đủ là sông Hằng già, hay Khắc già. Tiếng Trung quốc dịch là Thiên đường lai. Sông này gần thành Xá vệ.
Bồ đề: Tiếng Trung quốc dịch là giác ngộ.
Ba đường ác: Địa ngục, quỉ đói và súc sinh.
Tam bảo: Tức Phật, Pháp và Tăng. Tam bảo có sáu nghĩa, chi tiết trong luận Bảo tính.
Chính giác: Tiếng Phạn là Tam bồ đề, tiếng Trung quốc dịch chính giác là chứng quả vị Phật, gọi là thành chính giác.
A xà thế: Tiếng Trung quốc dịch là Vị sinh oán, thái tử của vua Bình sa.
Châu Bắc cu lô: Ở phía Bắc núi Tu di, người dân ở châu này có tuổi thọ đến hàng nghìn. Muốn mặc có áo, muốn ăn có cơm, sau khi chết được sinh về cõi trời.
Kì viên: Cây do thái tử Kì đà dâng cúng, vườn do trưởng giả Cấp cô độc mua. Nếu nói đầy đủ Vườn Cấp cô độc cây Kì đà, nay nói tóm tắt Kì viên.
Tinh xá: Là chỗ đức Phật và chư Tăng ở.
Tỉ kheo: Tiếng Trung quốc dịch là Người ăn xin. Xin giáo pháp nơi đức Phật để nuôi lớn thân tuệ. Xin thức ăn giữa đời để nuôi dưỡng thân thể. Còn có cách dịch khác là phá ác, bố ma.
Vua Thánh Chuyển luân: Vua Chuyển luân có bốn loại: Kim luân vương, cai trị bốn châu thiên hạ. Ngân luân vương, cai trị ba châu thiên hạ. Đồng luân vương, cai trị hai châu thiên hạ. Thiết luân vương, cai trị châu Diêm phù đề.
Tám nạn: Địa ngục, quỉ đói, súc sinh, sinh nơi xa trung tâm văn minh, sinh lên cõi trời Trường thọ, sinh nhà tà kiến, sinh trước đức Phật giáng sinh hay sau đức Phật giáng sinh. Có thuyết thay trời Trường thọ bằng châu Bắc cu lô, là không đúng. Xem kinh Đại Bát nhã, kinh Giảo lượng thọ mạng, có thể thấy.
Như lai: Tiếng Phạn là Đa đà a già độ, tiếng Trung quốc là Như lai, một trong những mười danh hiệu của đức Phật.
Phật Thích ca mâu ni: Tiếng Phạn Thích ca, tiếng Trung quốc dịch Năng nhân. Tiếng Phạn Mâu ni tiếng Trung quốc dịch là Tịch mặc. Có nghĩa đức độ Năng nhân có thể cứu giúp tất cả mọi người. Đạo của Ngài thích sự vô vi, vắng lặng. Phật, tức bậc giác ngộ.
Thiên trúc: Tức quốc gia nơi đức Phật giáng sinh, còn gọi là Ân độ, hay Thân độc, đó là quốc gia nằm ngay giữa cõi Diêm phù đề. Những đức Phật trước đây đều giáng sinh ở đây. Nước này rộng hơn chín vạn dặm, ba mặt cách xa biển, lưng dựa núi Tuyết, phía Đông kéo dài đến nước Chấn đán, phía Nam kéo dài đến nước Kim địa, phía Tây kéo dài đến nước A du giá, phía Bắc kéo dài đến núi Hương. Mỗi mặt rộng năm vạn tám nghìn dặm. Đến giờ Ngọ tiết Hạ chí, nước này dùng mô đất đất để đo đạc, bốn mặt không có bóng, còn những quốc gia khác đều có bóng.
Vua Tịnh phạn: Tiếng Phạn là Duyệt đầu đàn, tiếng Trung quốc dịch là Tịnh phạn, hoặc Bạch tịnh, là thân phụ đức Phật, quốc vương nước Ca duy la vệ.
Phu nhân Ma da: Nói đầy đủ là Ma ha ma da. Tiếng Trung quốc dịch Đại vệ hoặc Đại huyễn, tức có thể dùng những phép thuật lạ. Thân mẫu đức Phật.
Ba la xoa: Còn gọi là Tất lợi xoa, tiếng Trung quốc dịch là Vô ưu.
Bốn đại thiên vương: Đa văn thiên vương ở phía Bắc, Trì quốc thiên vương ở phía Đông, Tăng trưởng thiên vương ở phía Nam, Quảng mục thiên vương ở phía Tây.
Vua trời Đao lợi: Tức vua trời Đế thích, Thích đề hoàn nhân. Trong kinh Niết bàn có thêm mười một tên khác.
Tì thủ yết ma: Tiếng Trung quốc dịch là các loại thợ thuyền, là những người thợ thủ công vùng miền Tây thường thờ cúng vị thần này.
Ba mươi hai tướng: Bàn chân đầy đặn, có hình những bánh xe. Tay chân mềm mại như tơ trời Đâu la. Hoa văn nơi các ngón chân cùng có những hình dáng giống nhau. Các ngón chân nhọ dài. Chân ngồi xếp bằng cân đối. Ánh sáng chiếu từ đầu đến chân. Hai tai dài tròn và nhọn. Hai tay dài quá đầu gối. Ẩm tàng có tướng Phạn thiên. Các lỗ chân lông mềm mại. Tóc xoăn về bên phải. Dạ dày không thấm nước. Cơ thể có màu vàng sáng loá. Chân tay, vai trán đều đầy đặn. Trán đẹp kì lạ. Cánh tay đầy đặn. Hình dáng hồng hào đầy đặn. Cơ thể cân đối. Dáng người cân xứng. Người oai vệ như sư tử chúa. Ánh sáng toả ra mỗi mặt một tầm. Bốn mươi chiếc răng trắng, khít như ngọc Kha tuyết. Bốn răng ngoài nhọn sắc. Được những vị ngon thượng hạng. Lưỡi mỏng, sạch sẽ, có thể thè lấp mặt đến trán. Tiếng Phạn du dương, người xa hay gần đều có thể nghe thấy. Lông mi bằng thẳng đều đặn. Da trắng hồng. Mặt tròn như mặt trăng. Lông mi cong như cung tên trời Thiên đế. Giữa hai hàng lông mày có tướng hào quang trắng. Đỉnh đầu cao, tròn đầy như lọng trời.
Tám mươi tướng tốt: Chi tiết trong kinh Hoa nghiêm, Đại Bát nhã, Tam muội hải.
Da thâu đà la: Tiếng Trung quốc dịch Danh vặn, con gái của trưởng giả Di thí. Phi của thái tử Tất đạt, mẹ La hầu la.
Cù di: Tiếng Trung quốc dịch Minh nữ, con gái trưởng giả Xá di. Kinh Thập nhị du và Thích luận đều nói nàng này là chính phi của thái tử, Da du đà la là thứ phi.
Lộc dã: Con gái của trưởng giả họ Thích, phi thứ ba của thái tử.
Ba tuần: Còn gọi là Ba tì dạ. Tiếng Trung quốc dịch là Cực ác, tên của một ma vương.
Tam muội: Tiếng Trung quốc dịch là chính định, không phải tà định. Còn gọi là chính thọ, nghĩa là không thọ những cảm thọ nên gọi là chính thọ.
Lục thiên: Trời Tứ vương đến trời Tha hoá, chi tiết có ở phần sau.
A nan: Tiếng Trung quốc dịch là Khánh hỉ. Sinh đúng ngày Phật thành đạo nên có tên như thế. Là con trai vua Hộc phạn, em họ đức Phật.
Nước Câu đàm di: Còn gọi là Kiều thưởng di, một tiểu bang giữa nước Ân độ.
Ma nhân đề: Tên người.
Ma đặng nữ: Ma đặng nữ tức mẹ của Ma đăng già. Ma đặng nữ tức chỉ Ma đăng già.
Mục liên: Nói đầy đủ là Mục kiền liên. Tiếng Trung quốc dịch Thái thúc thị.
Sa di: Tiếng Trung quốc dịch là ngưng nghỉ và từ bi. Ngưng những tư tưởng dục nhiễm của thế gian, đem lòng từ để cứu giúp chúng sinh.
An đà: Một quốc gia gần Ân độ.
Ưu bà tắc: Còn gọi là Ưu bà tố ca. Tiếng Trung quốc dịch là người nam thân cận. Tức gần gũi vị Tỉ kheo để làm việc, còn gọi là Ô bà tát ca, tiếng Trung quốc dịch là người nam khéo ăn ở, tức tuy vẫn tại gia nhưng không quan hệ giữa nam nữ.
Thành Câu thi na: Tiếng Trung quốc dịch là thành Góc, vì thành này có hình ba góc.
Phật Ca diệp: Tiếng Trung quốc dịch là Ẩm quang, thầy của đức Thích ca, đức Phật thứ ba trong một nghìn vị Phật kiếp Hiền.
Tám vua: Lập Xuân, Xuân phân, Lập Hạ, Hạ chí, Lập Thu, Thu phân, Lập Đông , Đông chí.
Sau căn: Mắt, tai, mũi, lưỡi, cơ thể, và ý thức.
Tám khổ: Sinh, già, bệnh, chết, yêu thương mà phải xa nhau, ghét nhau mà phải ở cùng nhau, muốn không được, thân thể đòi hỏi.
Bốn chúng xuất gia: Tỉ kheo, Tỉ kheo ni, Sa di, Sa di ni.
Tám bộ: Trời, rồng, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lâu la,Khẩn na la, Ma hầu la dà.
Tỉ kheo ni: Tiếng Trung quốc dịch là Khất sĩ nữ.
Ưu bà di: Còn có cách gọi khác là Ô bà tư ca. Tiếng Trung quốc dịch là người nữ thân cận, tức gần gũi vị Tỉ kheo ni để làm việc, còn gọi là Ô bà tát cát, tiếng Trung quóc dịch là thiện túc nữ.
Cưu ma la thập: Tiếng Trung quốc dịch là Đồng thọ, người Ân độ, cháu vua nước Qui tư. Năm thứ chín đời Kiến nguyên, triều Phù kiên, quan Thái sứ tấu có một vị đức độđang ở ngoại quốc, liền cho sứ đi thỉnh Ngài về Trung quốc.
Trà tì: Còn gọi là Đồ duy, hoả thiêu.
Tam tạng: Kinh, luật và luận.
Phù đồ: Tiếng Trung quốc dịch là cao hiển, tháp thờ Phật.
Di lặc: Tiếng Trung quốc dịch là Từ thị, họ. Là vị thành Phật kế tiếp đức Phật Thích ca, chi tiết trong kinh Di lặc hạ sinh thành Phật.
Bảy vị Phật: Tì bà thi, Thi khí, Tì xá phù, Câu lưu tôn, Câu na hàm mâu ni, Ca diệp, Thích ca mâu ni.
Bát nê hoàn: Tức Bát Niết bàn, xem phần trước.
Sáu cõi: Trời, người, A tu la, súc sinh, quỉ đói, địa ngục.
Ba tháng chay trường: Giêng, năm và chín.
Hành giả: Người tu hành.
Bốn đại: Đất, nước, gió và lửa. Có nội và ngoại bốn đại. Nếu lấy có thể người để nói, thì xương thịt là đất, máu huyết là nước, hơi thở là lửa, chuyển động là gió.
Mắt thần: Một trong năm phép thần thông. Mắt thần có loại rộng hẹp khác nhau. Có thứ mắt thần của ngoại đạo, trời, cõi tiên. Có mắt thần của bậc Thanh văn, Duyên giác. Có thứ mắt thần của Phật, Bồ tát.
Ma đăng: Nói đủ là Ma đăng già. Tiếng Trung quốc dịch là Bản tính, dâm nữ, sau này khi đến pháp hội Lăng nghiên được nghe Phật pháp nên ngộ đạo rồi xuất gia, tên Tỉ kheo ni Tính.
Ưu bát la: Tiếng Trung quốc dịch là hoa sen xanh, không phải hoa Ưu đàm bát la. Ưu đàm bát la là tên một loại cây. Tiếng Trung quốc dịch là Linh thuỵ, bình thường nó là loại cây không có hoa, nhưng khi đức Phật, hay vua Thánh chuyển luân ra đời thì mới ra hoa.
Ma hê thủ la: Tiếng Trung quốc dịch Đại tự tại, là vua cõi trời Sắc cứu cánh. Tiếng Phạn là A ca ni tra, tiếng Trung quốc dịch là Khuất ngại cứu cánh, hay còn gọi là Sắc cứu cánh, là cõi trời cao nhất trong cõi Sắc.
Diêm phù đề: Nói đầy đủ là Diêm phù na đề, tên một loại cây, tiếng Trung quốc dịch là Thắng kim, vì dưới cây có vàng nên đặt tên loại cây đó như thế. Vì châu này có nhiều cây đó nên lấy tên đặt cho châu, tức là châu Nam thiệm bộ, châu này rộng bảy nghìn do tuần.
Uất đơn việt: Tiếng Trung quốc dịch là Cao xuất, còn gọi là Thắng xứ, tức châu Bắc cu lô, châu này rộng mười nghìn do tuần.
Cồ đà ni: Còn gọi là Cồ da ni, tiếng Trung quốc dịch là Ngưu hoá, tức châu Tây ngưu hoá, châu này rộng tám nghìn do tuần.
Phất bà đề: Còn gọi là Tì đề ha, Phất vu tiệp. Tiếng Trung quốc dịch là Thắng, tức châu Đông thắng thần, châu này rộng chín nghìn do tuần.
Tu di: Nói đầy đủ là Tu di lô, tiếng Trung quốc dịch là Diệu cao. Do bốn thứ châu báu hợp thành gọi là diệu, vượt lên tất cả những ngọn núi khác gọi là cao. Nằm giữa bốn châu thiên hạ, chiều cao của ngọn núi này là mười sáu vạn tám nghìn do tuần. Một nửa nổi lên trên mặt biển, một nửa chìm dưới mặt nước biển, trên đỉnh là cung trời Đao lợi, mặt trăng và mặt trời di chuyển ở giữa phần nổi trên mặt nước của ngọn núi này.
Ta bà: Còn gọi là Bà ha, Tố ha, tiếng Trung quốc dịch là Kham nhẫn, tức vùng đất đức Thích ca đã ứng hoá. Là tên gọi chung của đại thiên thế giới.
Tứ thiên vương: Là cõi trời thứ nhất trong cõi Dục, cách quả đất bốn vạn hai nghìn do tuần, cung điện cõi trời này gần mặt trời và mặt trăng.
Trời Đao Lợi: Tiếng Phạn là Đao lợi, tiếng Trung quốc dịch là Ba mươi ba. Trên cõi trời Tứ vương, trong đó có vua trời Đế thích ở. Bốn mặt có ba mươi hai vị thiên tử làm thần giúp việc bên trong, nên hợp thành con số ba mươi ba. Không phải số thứ tự ba mươi ba từ dưới lên trên.
Trời Dạ ma: Tên đầy đủ là Tu dạ ma. Tiếng Trung quốc dịch là Thiện thời phân, trên cõi trời Đao lợi.
Trời Đâu suất: Tên đầy đủ là Đâu suất đà, tiếng Trung quốc dịch là Diệu túc, trên cõi trời Dạ ma.
Trời Hoá lạc: Tiếng Phạn là Tu niết mật đà. Tiếng Trung quốc dịch là Hoá lạc, trên cõi trời Đâu suất.
Trời Tha hoá tự tại: Tiếng Phạn là Ba xá bạt đề, tiếng Trung quốc dịch Tha hoá tự tại, trên cõi trời Hoá lạc, là tầng trời thứ sáu trong cõi Dục. Trên cõi trời này là có hai cõi Dục và Sắc ở giữa, có trời Ma thân, cai trị cõi Dục, nên gọi là cõi trời cao nhất cõi Dục.
Do tuần: Còn gọi là Do diên, Du thiện na, là căn nhà của vua Chuyển luân mỗi lần tuần thú nghỉ lại. Do những trạm nghỉ chân ở phương Bắc có cái rộng mười sáu dặm, có cái rộng ba mươi dặm, có cái rộng bốn mươi dặm, có cái rộng sáu mươi dặm đến tám mươi dặm.
Chân thúc ca: Tiếng Trung quốc có nghĩa màu đỏ.
A di đà: Tiếng Phạn A, tiếng Trung quốc dịch Không. Tiếng Phạn Di đà, tiếng Trung quốc dịch không thể đếm. Vì ánh sáng không kể hết, tuôit thọ không kể hết, phước đức không kể hết.
Thế giới tam thiên đại thiên: Nghìn mặt trời, nghìn mặt trăng và nghìn ngọn núi Tu di, cho đến nghìn cõi trời Phạn thế gọi là một tiểu thiên thế giới. Một nghìn tiểu thiên thế giới thành một trung thiên thế giới. Một nghìn trung thiên thế giới gọi là một đại thiên thế giới, vì nói ba lần một nghìn nên có tên gọi như thế, thật ra ba nghìn chỉ là một đại thiên.
Ma ni: Còn có tên khác là Mạt ni, tiếng Trung quốc dịch là xa mọi sự ô uế.
Nước tám công đức: Lắng trong, mát mẻ, ngọt ngào, nhẹ nhàng, thấm nhuận, hoà dịu, có thể khỏi cơn đói khát, nuôi lớn các căn.
Bảy cõi: Kinh Lăng nghiêm nói cõi Tiên hợp với sáu cõi, gọi là Bảy cõi.
Ba con thú: Voi, ngựa và thỏ.
Phạn vương: Vua cõi Ta bà.
Thiết vi: Tiếng Phạn là Chiết ca la, tiếng Trung quốc dịch là Luân sơn, hay còn gọi là Thiết vi sơn. Nằm bên ngoài bốn châu.
Ba đời: Quá khứ, hiện tại và tương lai.
Năm ấm: Sắc, thọ, tưởng, hành, thức.
Thanh văn: Nghe giáo pháp tứ đế được chứng quả thì gọi là Thanh văn.
Chín phẩm vãng sinh: Ba phẩm thượng, trung, hạ, mỗi phẩm lại chia ra thượng trung hạ, cộng thành chín phẩm. Nghĩa chi tiết có trong kinh Quán vô lượng thọ.
Mười việc ác: Thân có ba, miệng có bốn, ý có ba. Thân: Sát sinh, trộm cắp, tà dâm. Miệng: Nói dối, nói ba hoa, nói hai lưỡi, chửi bới. Ý: Tham lam, giận dữ, ngu si.
Nê lê: Tên địa ngục. Tiếng Trung quốc dịch là không có, tức không có sự vui sướng, không có ngày được tha.
A bàng: Lính ngục, tiếng Trung quốc dịch Không có lòng thương.
Trời Quang âm: Khi giao tiếp miệng họ phát ra ánh sáng nên gọi là Quang âm, trên đỉnh trời Nhị thiền của cõi Sắc. Khi kiếp Hoả đến, cõi này là nơi đầu tiên thoát khỏi nạn đó.
Địa vị: Một thứ cỏ mọc trên mặt đất thời kiếp Sơ, có hình như sữa được nấu chín, có vị ngọt như mật ong.
Bốn hình thức sinh sản: Trứng, thai, ẩm thấp, biến hoá.
Phạn hạnh: Giữ giới, không dâm dục gọi là tu Phạn hạnh.
Ba sinh: Ba đời.
A tu la: Tiếng Tiếng quốc dịch là không xinh đẹp, là bởi người đàn ông xấu xí, còn người phụ nữ xinh đẹp. Còn gọi là không phải trời, có phước của trời nhưng không có đức độ như chư thiên. Còn gọi là không có rượu, vì chưng rượu không được nên tức giận thề không uống rượu nữa.
Mười tám trời Phạn: Tức các tầng trời trong cõi Sắc, trên cõi Dục. Vì đã cắt đứt lòng dục nên gọi là Phạn. Mười tám tầng trời: Phạm chúng, Phạm phụ, Đại phạm, Thiểu quang, Vô lượng quang, Quang âm, Thiểu tịnh, Vô lượng tịnh, Biến tịnh, Phước sinh, Phước ái, Quảng quả, Vô tưởng, Vô nhiệt, Thiện kiến, Thiện hiện, Sắc cứu cánh. Nghĩa chi tiết trong cuốn thứ tám, chín, kinh Lăng nghiêm.
Mười sáu nước lớn: Là những quốc gia láng giềng của Ân độ, như Ương già, Ma kiệt đề…
Hai mươi tám thiên vương: Cõi Dục có sáu, cõi Sắc có mười tám, cõi Vô sắc có bốn.
Trời Phi phi tưởng: Là cõi trời trên cùng của cõi Vô sắc.
Bốn giai cấp của bậc Tu đà hoàn: Tiếng Phạn Tu đà hoàn, tiếng Trung quốc dịch là vào dòng Thánh, tức các pháp nhãn thanh tịnh được dự vào dòng Thánh, thêm Tư dà hàm, A na hàm, A la hán, thành bốn giai cấp.
Duyên giác: Nghe Phật nói pháp mười hai nhân duyên mà được ngộ đạo nên gọi là Duyên giác.
Độc giác: Ra đời không gặp Phật, tự mình giác ngộ nên gọi là Độc giác.
Mười tín: Tâm tin tưởng, tâm nhớ nghĩ, tâm sốt sắng, tâm sáng suốt, tâm định, tâm không lui sụt, tâm hồi hướng, tâm hộ pháp, tâm giữ giới, tâm thệ nguyện.
Mười trú: Trú phát tâm, trú như mặt đất, trú tu hành, trú sinh quí, trú phương tiện đầy đủ, trú chính tâm, trú không lui sụt, trú tuổi trẻ, trú con của đấng Pháp vương, trú quán đỉnh.
Mười hạnh: Hạnh vui vẻ, hạnh làm ích lợi cho mọi người, hạnh không sân hận, hạnh vô cùng, hạnh xa lìa sự loạn động, ngu si, hạnh làm việc thiện ngay trong đời này, hạnh không chấp trước, hạnh tôn kính, hạnh chân thật.
Mười hồi hướng: Cứu giúp tất cả chúng sinh để họ thoát khỏi sinh tử, không làm tổn hại, chúng sinh bìng đẳng như đức Phật, đến tất cả nơi chỗ, kho tàng công đức vô tận, tuỳ thuận, coi tất cả các căn lành đều bình đẳng, coi hết thảy mọi người đều giống nhau, tướng chân như, giải thoát tất cả, không còn ràng buộc, pháp giới vô lượng.
Mười cấp bậc trong Hoan hỉ địa: Tức mười địa: Hoan hỉ, Li cấu, Phát quang, Diệm tuệ, Nan thắng, Hiện tiền, Viễn hạnh, Bất động, Thiện tuệ, Pháp vân.
Ngôi vị bổ xứ: Tiếng Phạn: A duy nhan, tiếng Trung quốc dịch: nhất sinh bổ xứ. Tức một lần cuối cùng trước khi giáng sinh, sẽ thành Phật.
******