An Sĩ Toàn Thư – Bài 67- Tây Quy Trực Chỉ (Tập 01 – Bất Tịnh Quán Tụng)

BẤT TỊNH QUÁN TỤNG

 

Phật vì những chúng sanh tham dục mà nói bất tịnh quán, quán một thời gian lâu, tham dục liền trừ, có thể vượt ái hà và siêu khổ hải. Tôi rảnh rỗi đọc “Đại Trí Độ Luận”, rồi nhân đó lấy ý, diễn thành kệ, để tự nhắc mình, đồng hời nhắc nhở thế gian, kệ rằng:

Tử tưởng:

Ân ái ri cũng chết,

Thân này có bn lâu?

Thay ai khóc vô ích,

Ai khéo hiểu tư lường?

Trướng tưởng:

Vừa đang độ thanh xuân,

Bỗng thànhthân sình trướng;

Tui niên thiếu trước mt,

Dung moli thế nào?

Thanh ứ tưởng:

Tướng trắng đỏ rõ ràng,

Thân xanhvàng nát;

Xin anh mmắt coi,

Đó chẳng phải ngườikhác.

Hoại tưởng:

Da thịt đã rơi xuống,

Ngũ tạng trong hinra;

Nếu nhìn cho thấu đáo,

Chỗ nào đáng luyến lưu?

Huyết đồ tưởng:

Không còn mmiu na,

toàn máumtanh hôi;

Mun tìm tướng xấu đẹp,

Hình cht dn Phôi phai.

Nùng lạn tưởng:

Thi ra tht khó nhìn,

Tanh hôikhông thngửi;

Đâu ngờ nơi mủ chy,

Là chtng bôison.

Đạm tưởng:

Dê chó ăn thịt người,

Người từng ăn dêchó;

Không biết người và thú,

Ai thi lại ai thơm?

Tán tưởng:

Hình hài đã tan rã,

Tay chân cái mỗi đường;

Quán kỹ tướng xinh đẹp,

Rt cuộc đi về đâu?

Cốt tưởng:

Vn bộ xương trắng xoá,

Mà tng dingười ta;

Ngày xưa xem là giả,

Ngày nay thy chânthường.

Thiêu tưởng:

Thế la nóng hng hực,

Xương tàn chốchoá không;

Nhìn xem trong khói la,

Có khi tham tâmkhông?

Kệ trên hơi sơ lược, chưa quán kỹ, làm thêm luật ngũngôn, cho rộng hơn.

Tử tưởng:

Ai luyến ri cũng biệt,

Thê lương không nỡnhìn;

Thc va ra khi thể,

Thân đã mc áo quan;

Lađêm sưởi nhà trng,

Gió thu lnh màu tang;

Khuyên aigp ngày y,

Hãy quán tưởng thân tàn.

Trướng tưởng:

Phong đại thi bên trong,

Chc lát đãsình trướng;

Thân như bịch nước đầy,

Bng tợ dưa bứtdây;

Nước ba ra ghê tm,

Rồi rui nhặng bu đầy;

Tngvì da mng di,

Hi hận sai năm xưa.

 

Thanh ứ tưởng:

Nng gió thổi nướng lâu,

Xanh vàngrất đáng thương;

Da khô đầu tiên háp,

Xương mục naphn trên;

Tai mũi khuyết lhng,

Gân cốt đứt liên hi;

Người đá tuy không nói,

Nhìn đây cũng hi ôi.

Hoại tưởng:

Da tht va va ra,

Hình cht lin lloét;

Nt nnhiều đường nt,

Giòi brúc ngn ngang;

Dâykhô qun tóc ri,

Rêu m vn áo qun;

Gi li ngườixinh đẹp,

Thôi bôi vẽ túi dơ.

Huyết đồ tưởng:

Mt mng máu vô tình,

Ngàn nămngười không dậy;

Đầm đìa bết tthi,

Ba bn dơ đấtcát;

Chhỏi tướng xấu đẹp,

Ai hay thân gái trai;

Thương thay đôi mắt tht,

Lầm nhn gilàm chân.

Nùng lạn tưởng:

Da mng dán giy rách,

Tht thi bcanh thiu;

Máu huyết ttrong chy,

Rui nhng bênngoài tranh;

Ăn lòng heo dói,

Nước ra chó khó trong;

Nếu không cc ghê tm,

Làm sao đoạn vng tình?

Đạm tưởng:

Thi hài bị thú ăn,

nham nhở xương trắng hếu;

không no bụng chim đói,

không hết chó thèmthuồng;

năm xưa yêu mình quá,

ngày nay chng aithương;

không bằng tht heo chó,

còn bán được nhiutin.

Tán tưởng:

Tchi bng chia lìa,

Đâu còn thân nguyênvẹn;

Đâu chỉ vẻ đẹp mt,

Mà tên tui cũng không;

Thyu nhìn cthu,

Mp m hi gió chiu;

Xin ai mtomt,

Suy ngm kvic này.

Cốt tưởng:

Da thịt đã tiêu tr,

Chcòn xương trắng hếu;

Mưa khiến cho m mốc,

Nước ngp đất in xương;

Bao trùng kiến kéo đến,

Thâu tàng vng cháu con;

Nétphong lưu đâu mt,

Hn vất vưởng lang thang.

Thiêu tưởng:

La dtáp hài ct,

Chốc đã bùng lên cao;

Đỏ bay đầu ngn lửa,

Đen tới đỉnh ti cao;

Vng nimđồng tro hết,

Chân tâm tmt tri;

Muốn siêu đườngsanh t,

Quán này phi tinh chuyên.

Tứ Niệm Xứ Tụng

Lúc Phật sắp vào Niết-bàn, căn dặn các Tỳ-kheo, hãy nương vào Tứ Niệm Xứ, như Phật không khác. Nay nhằm vào thời mạt pháp, người giữ chánh niệm ít ỏi, nhìn lại pháp môn này, không mấy ai tu học. Đâu chỉ không tư duy về nghĩa lý của kinh, mà ngay cả tên kinh còn chưa biết, thật là đáng bùi ngùi!

Tôi ở   rảnh rỗi, đọc phẩm Di Giáo của kinh Niết-bàn, nhân đó rút ý nghĩa, viết thành thi kệ, để cho người ca vịnh, chánh niệm tăng trưởng, vọng niệm tiêu trừ, răn nhắc mình hằng ngày, đồng thời không quên di giáo.

Quán thân bt tnh:

Hkhởi điên đảo tưởng,

Lin có huyn duyên thân;

Máu mủ thường hn hp,

Tanh hôi mãi hin bày;

Giydán da vào tht,

Dây qun ct vi gân;

Lông mọc đầyrm rp,

Trùng sanh khắp nơi thân;

Nội tng toàn xú uế,

Trang sc chỉ áo khăn;

Tứ đại vn không thật,

Các cănchng lẽ chân;

Nói năng tiếng tvang,

Hít thkhí thoàn;

Miễn cưỡng gi nam nữ,

Hư danh lập anh tôi;

Trăm năm ba thước đất,

Vạn cmt nm m;

Quý tinđều sanh t,

Hin ngu thảy ưu sầu;

Uổng sanh ri ungt,

Ai biết bn lai nhân.

Quán ththkh:

Các khtừ đâu khởi,

Biết chc tThsanh;

Thunnghch va lãnh np,

Ly blin tung hoành;

Còn cóthnh và suy,

Thì còn vinh và nhc;

Oán tthân màkhi,

Bun do vui mà sanh;

Nhà Vương, Tạ còn đâu,

Nước Tào, Lưu đã đổ;

Vui bun my gic mng,

Thngbi mt ván c;

Svi tâm trái nghch,

Bn vi bnhtìm nhau;

Tin thn hô không ti,

Nghèo quỷ đuổikhông đi;

Lật đật ri vô ích,

Uất c khp bt bình;

Không cu ti như quý,

Tri túc thiếu thành dư;

Ngộ đượcchân không lý,

Vui bun chnào sanh?

Quán tâm vô thường:

Vng tâm không chmc,

Thể tướng rt là sao?

Lploè đèn trong gió,

Lao xao sóng nước trên;

Một nhà sáucăn khác,

Sáu thức anh em nhiu;

Lộn xn chy theocnh,

Dồn dp mi khác nhau;

Xanh vàng mắt thay đổi,

Động tĩnh tai đổi thay;

Thúi thơm mũi phân bit,

Mặnlạt lưỡi khen chê;

Nóng lnh thân khó dễ,

Đẹp xu ý khen chê;

Cảnh dit tâm tm n,

Tình vong trí lloi;

Lậtđổ hang ngũ dục,

Dập nát ổ sáu căn;

giặc cướp vuachuyn hoá,

Chim bay khi võng la;

Khi nào ngộthường tr,

Các vng thy tiêu ma.

Quán pháp vô ngã:

Các pháp duyên sanh ra,

Vốn không có tngã;

Nhân  duyên có sanh dit,

Nghĩ suy liền kém hơn;

Muốn được trthành mt,

Cầu nhàn gp bận hơn;

Sợ lnh đông không dứt,

Khnóng hạ miên trường;

Nghèo mong giàu có sướng,

Già bám tui tráng niên;

Đâu ai ghét thun li,

Nào ai thích nguy vong;

Tự ti mi là chủ,

Đổi thay đâu phải thường;

Lìa căn nim nào khi,

không thc cnh hoàn vong;

Trong ngoài không gì c,

gia cũng trống trơn;

Sáu cửa không tch tĩnh,

Căn nhà lrõ ràng;

Chcn trn lao hết,

Lộ đại giác vương.

Tượng Tán

Tiên sinh Chu An Sĩ ở Côn Sơn, trước tác rất nhiều loại sách, Nhĩ Đán đọc những sách ấy, thu được lợi ích rất nhiều. Quá khứ đức Thế Tôn vì nửa bài kệ (các hành vô thường, là pháp sanh diệt…), mà còn xả thân cúng dường. Nay ơn của tiên sinh, Nhĩ Đán tôi không biết lấy gì để báo đáp. Uông Tử, Thạch Tâm lấy vẽ tượng làm đề, ngoài vui mừng chiêm lễ, còn cung kính làm kệ tứ ngôn nhị thập vận khen ngợi tượng của tiên sinh. Thật sự thì khen ngợi không thể hết, hay khen ngợi cũng thừa, ý tôi chỉ muốn phổ biến cho mọi người biết về việc trước tác rất nhiều sách của ngài, cái chính là để kết duyên vãng sanh Tịnh độ, nghĩ tiên sinh ở trong đài sen, chắc cũng mỉm cười. Một ngày sau ngày sóc vọng mùa đông năm Canh Tý niên hiệu Đạo Quang, Trương Nhĩ Đán.

Chỉ có đại cư sĩ, sanh vào thời Khang Hy. Biện tài vô ngại, nói pháp rất hay. Cư sĩ có khả năng viết lách, nói năng, nhanh như sấm sét. Sách vở Phật, Lão, Nho cư sĩ đều thông suốt. Khí như mây cuộn, từ như sóngnhồi. Là sứ giả Như Lai, làm đại đạo sư.

Thương cho mạt pháp, chúng sanh ngu si. Nếu chẳng phải Bồ-tát,ai có tiếng rống như sư tử (chỉ đức Phật)? Chết sanhTây Phương, tôi sanh đâu trễ. Viết sách vạn lời, xiển minh nguồn ấy. Xưa nghe luận thuyết, nay thấy dung nhan. Gậy nón về Tây, gió đùa râu trắng. Tôi coi mình là đệ tử không được truyền thừa, cúi đầu lễ bái, cảm động chảy nước mắt, danh đức của ngài thật bằng vớiPhật. Tất cả đồng đạo, đều vạn phần kính ngưỡng ngài;trước mắt tuy là hình tượng, nhưng trong đó lại có đại nhân duyên. Ngài có nguyện lực lớn, người đời không thể trắc lượng được. Mắt nhìn di tượng, trước mắt vọt ra hoa sen. Ai biết đảnh lễ, ngài sẽ dùng sức từ bi tiếp dẫn họ. Vô lượng chúng sanh, được qua biển khổ,vãng sanh Tây phương Tịnh độ.

Cởi bỏ phàm trần, sớm về Tịnh độ, tiết tháo cao vời, đến nay còn mãi. Trước tác đường đường, ngang với kinh Phật, ái hộ chúng sanh, với tâm tha thiết. Thân ở trần thế, tâm sớm xuất ly, nguyện lực hoằng thâm, không lìa chúng sanh. Nay tuy về tây, nhưng tượng vẫn còn, gương mặt tươi tắn, tự tại như sống. (Chu Triu Canh)

Tánh tịnh minh diệu, người người đều đủ, tinh tấn tu hành, ắt sẽ giác ngộ. Nhất trần bất nhiễm, tại thế xuất thế, kính ngưỡng cư sĩ, tôn túc Lộc Thành. Phát đại bi tâm, tạo vô lượng phước, trước tiếp Long Thư, sau dẫn Xích Mộc. Đài vàng sừng sững, một mình trên cao, nguyện khắp đại thiên, thoát ly ô trược,khi thiện quả tròn, đồng sanh Cực Lạc. (Khâu Hng Nghip)

Biển ái ngày một sâu, sóng khổ ngày một lớn, thương thay cho thế nhân, đời ác trược khó đổi. An Sĩ ở Lộc Thành, phát đại Bồ-đề nguyện, soạn bốn cuốn sách lớn, mỗi chữ đều nhắc nhở. Thí như trong phòng tối, ánh đèn và điện chớp. Lại như rơi núi cao, được vớt bởi lụa trắng. Tự độ cùng độ người, bi mẫn từ tâm hiện. Một mai thiện quả thành, đài vàng xuống đónrước. Hậu sanh mất chuẩn mực, sùng mộ hoài vô ích.

Giỏi thay ngài An Sĩ, hậu duệ hỏi tìm khắp. Vui mừng được di tượng, khéo tay vẽ giống in. Tôi sanh ra quá trễ, không thấy tướng mạo người. Học đạo có thành tâm, đọc sách như thấy mặt. Huống hồ thấy hình này, đảnh lễ sanh lưu luyến. Tái bái không lên tiếng, nguyện mượn thuyền phương tiện, tiếp dẫn người thế gian, cùng lên bất thoái chuyển. (Chu Triu Tiêu)

Đọc hoài sách An Sĩ, tái bái tượng tiên sinh. Lời nhân lợi càng rộng, đạo mạo thấy nghiêm trang. Nhiều đời hành Bồ-tát, một hiện cư sĩ thân. Vào ra trong nho Phật, rốt ráo về Tây phương. Đáng thương người thế gian, lang thang khổ sanh tử. Di thư khắp nhân gian,vang như tiếng trống trời. Hận tôi sanh quá muộn, không thể hầu cận bên. Bốn mươi năm hành đạo, đệ tử ngưỡng cao sơn. Kính đốt một nén hương, kiền thành lễ hoa tạng. Ta-bà nguyền trở lại, độ chúng sanh vô lượng. (Khâu Tôn Cm)

Cư sĩ là tiên sinh ở quê tôi, cao sơn ở chỗ dừng lại của sự kính ngưỡng. Quê tôi văn bút đẹp ngọc phong, cận đại danh nhân liên tiếp khởi. Trang Cừ lý học được chân truyền, Bá Lô kế thừa mỗi cụ thể. Văn chương độc số Quy Chân Xuyên, khảo chứng Đình Lâm quán kinh sử. Cư sĩ càng thông cảnh (giới) Phật nho, thấu rõ sanh tử. Soạn hai loại sách giới Dâm, Sát, vào đầu vừa hét động lỗ tai. Trước độ chúng sanh khỏi bờ mê, sau dẫn con đường quy trực chỉ. Một lòng niệm Phật hướng Lạc bang, mười ngàn ức cõi như bên cạnh.

Trong hồ thất bảo nở hoa sen, cười bảo người nhà Phật đã đến. Tôi sinh trễ đến 60 năm, hận không được thấy Như Lai sứ. Cứu cánh tôn sùng không gì khác, nhân duyên xuất thế là ở đây. Cư sĩ tự gọi là Hoài Tây, còn Hoài của tôi là cư sĩ. (Phương Bộ Doanh) Hiện thân cư sĩ, thí pháp cho người, sau Long Thư, chỉ có Chu An Sĩ. Long Thư khuyên tu Tịnh độ, giáo hoá sơ cơ, niệm liên tục, vào sâu Phật trí. An Sĩ trực chỉ, ba căn (thượng căn, trung căn, hạ căn) đều vẹn, nhân duyên thí dụ, đều ở bên trong. Uông Tử thâm tâm, thêu tượng cúng dường, để cho người đời, mỗimỗi kính tín. (Chu Hiếu Cai)

Thiện tri thức, đại Bồ-tát. Mũ khăn Nho, nói Phật pháp. Gìn giới luật, giới dâm sát. Tam thừa giáo, ý sâu rộng. Mang thân tâm, phụng trần sát. Hoằng trì danh, xiển Tịnh độ. Thương Lỗ Dương, mặt trời thụt. Đọc sách ngài, như thấy mặt. Bái tượng ngài, đạo khí ắp.

Trước Long Thư, sau Xích Mộc. Ngài ở giữa, đảnh ba chân. Tượng pháp suy, các ngài cứu. Dứt tà thuyết, chấn đồi phong. Tôi sau ngài, cả trăm năm. Chiêm di tượng, vuốt di thư. Tâm bi hỷ, mắt ràn rụa. Ngài hoài tây, tôi cũng thế. Nguyện gia bị, ngài cánh sen. (Thích TQuán)

Cuộc đời cư sĩ Chu An Sĩ

Chu Mộng Nhan, còn gọi Tư Nhân, tự An Sĩ, nho sinh Côn Sơn. Bác thông kinh tạng, tin sâu pháp môn Tịnh độ, tự hiệu Hoài Tây cư sĩ.

Chúng sanh tạo vô lượng tội, nhất là hai nghiệp dâm sát, vì đó viết hai cuốn giới sát giới dâm. Cuốn giới sát đặt tên “Vạn Thiện Tiên Tư”, lời lẽ khẩn thiết. Tự bảo mỗi khi đi qua tất cả miếu thần, đều chú nguyện rằng: “Mong chư tôn thần, phát tâm xuất thế, không nhận rượu thịt, một lòng thường niệm A-di-đà Phật, cầu sanh Tịnh độ. Tư Nhân từ nay (24 tuổi) cho đến mạng chung, nếu có giết một con vật nhỏ, cho đến quyến thuộc trong nhà, nếu có một người giết trùng kiến, mong tôn thần cải chánh, trừng phạt, nổi sấm đánh nát sách tôi trước tác.

Tư Nhân từ nay (24 tuổi) cho đến mạng chung, xuốngnước thấy cá, ngưỡng mặt thấy chim, không nghĩ đến cứu độ, mà ngược lại nghĩ đến sát hại, thì cũng sẽ bị phạt giống như thệ này. Tư Nhân từ nay (24 tuổi) cho đến mạng chung, nếu trong mộng, thấy người sát sanh, mà không thể chí tâm xưng danh hiệu Phật, phát tâm cứu độ, mà ngược lại còn vui theo, thì cũng sẽ bị phạt giống như thệ này”. Cuốn giới dâm đặt tên “Dục Hải Hồi Cuồng”, khuyên người dâm dục, trước quán thai ngục, rõ đủ các khổ, đó là phương tiện dứt dâm đầu tiên; kế đến quán thân này, là ổ vi trùng, ăn tuỷ não người, đó là phương tiện bất tịnh ban đầu; kế nữa quán nam nữ, máu mủ mũi giải, những chất bất tịnh, giống như hầm xí, đó là phương tiện đối trị dứt dâm; kế nữa quán tưởng người chết nằm ngữa, băng lạnh thấu xương, nước vàng chảy ra, thúi không chịu nổi, khắp thân thể đầy giòi bọ chui rúc, da thịt vữa ra, gân cốt lòi ra, thân ta, rốt cuộc cũng thế; kế nữa quán niệm tướng sanh, tướng diệt và tướng bất sanh bất diệt mà kinh “Pháp Hoa” nói, đó là phương tiện đoạn dâm tận gốc; kế nữa quán tự thân, trong hoa sen ở ao thất bảo, nước Cực Lạc, hoa sen nở ra, thấy Phật A-di-đà, ngồi hoa sen báu, đủ các thuỵ tướng trang nghiêm, cũng thấy tự thân, lễ bái cúng dường Phật, quán như thế xong, phát nguyện vãng sanh thế giới Cực lạc, vĩnh viễn ra khỏi lưới dâm, đó là phương tiện giải thoát rốt ráo.

Lại viết “Âm Trắc Văn Quảng Nghĩa” 3 quyển,“Tây Quy Trực Chỉ” 4 quyển. Tháng giêng năm thứ 4 niên hiệu Càn Long, từ biệt mọi người, nói sẽ về Tây Phương, người nhà xin tắm nước thơm, đưa tay ngăn bảo: “Ta tắm nước thơm lâu rồi!” Rồi cười nhẹ mà đi, hương lạ thơm khắp cả phòng, thọ 84 tuổi.

Tây phương có 10 loại thù thắng:

  1. Hoá sanh trong hoa sen – khác với sanh trong bào thai
  2. 2. Tướng hảo đoan nghiêm – khác với thân thịt xấu xí3. Trải vàng làm đất – khác với đất cát dơ uế (dơ sạch khác nhau trời vực)
  3. Ăn uống áo quần tự nhiên – khác với đói lạnh
  4. Cung điện tuỳ ý – khác với xây dựng vất vả
  5. Phi hành tự tại – khác với túi da nhiều bệnh (khổ vui khác nhau trời vực)
  6. Thiện hữu ái kính – khác với oan gia hội tụ
  7. Thọ mạng vô lượng – khác với thoắt sanh thoắt tử
  8. Vĩnh viễn không còn thoái chuyển – khác với nghiệp duyên chướng đạo (khó dễ như trời với đất)
  9. Thọ ký thành Phật – khác với liên tiếp sanh vào tam đồ.

******