An Sĩ Toàn Thư – Bài 68 – Tây Quy Trực Chỉ (Tập 02 – Tây Quy Trực Chỉ Tập 01)

Tây Quy Trực Chỉ

(Quyn 1)

 

Hoài Tây Cư Sĩ Chu Mộng Nhan An Sĩ Dân Vựng Tp

Cương Yếu của Tịnh độ

Đức Phật vì một đại sự nhân duyên mà xuất hiện nơiđời, đó là vì thương tưởng chúng sanh, luân hồi tronglục đạo, ra rồi lại vào, chịu khổ vô lượng. Do đó trongmười phương cõi Phật, chỉ ra thế giới Tây Phương Cực Lạc, để mọi người biết chỗ hướng về. Lại trao cho pháp môn cực kỳ giản dị, chỉ cần niệm Phật, liền được vãng sanh, quả là chiếc thuyền đại từ trong biển sanh tử.

An Sĩ tôi phước báo sâu dày, may mắn gặp được pháp môn này, không dám phụ ân đức của Phật, nên mang đại tiểu bổn Di-đà yếu chỉ, trích lục đại yếu,khiến người đọc vừa đọc liền hiểu, gọi là “Tịnh độ cương yếu”.

A-Nan khi thnh

Đại bổn “A-di-đà Kinh” nói: “Một ngày nọ, đức Thích-ca Như Lai, dung nhan bỗng khác thường, Anan bạch: Bạch đức Như Lai, nhan sắc Như Lai hôm nay bỗng khác, chắc đức Như Lai sắp nói thắng pháp?

Phật khen: Ông hỏi hay lắm! Lời ông hỏi phước hơn cúng dường Thanh-văn, Duyên-giác bốn châu thiên hạ,và bố thí chư thiên nhân dân, cho đến các loài bò bay cựa động. Dù cúng dường muôn kiếp, cũng không bằng. Vì sao? Vì chư thiên, đế vương, nhân dân, cho đến các loài bò bay cựa động, đều nhờ ông hỏi mà được đạo giải thoát.

Li bàn: Theo đây thì biết, pháp môn Tịnh độ, không chỉ là pháp môn dành cho con người, mà cho cả chư thiên chư tiên. Chớ có coi thường.

 Phật Độ Song Tiêu

Tiểu bổn “A-di-đà Kinh” nói: Lúc ấy Phật bảo với trưởng lão Xá-lợi-phất. Từ đây đi về phía tây qua 100.000 ức cõi Phật, có thế giới tên là Cực lạc, cõi ấy có Phật tên A-di-đà, hiện đang thuyết pháp.

Xá-lợi phất, cõi Phật ấy vì sao gọi là Cực-lạc? Bởi chúng sanh ở trên cõi Phật ấy, không có các khổ nạn, chỉ thọ hưởng an vui, nên gọi là Cực-lạc.

Pháp Tạng Nhân Địa

Đại Bổn Kinh nói: Vô lượng vô số kiếp về trước, có Phật Thế Tự Tại Vương ra đời, hoá độ chúng sanh.

Lúc bấy giờ có đại quốc vương, nghe Phật thuyết pháp, liền giác ngộ, từ bỏ vương vị, theo Phật xuất gia,hiệu Pháp Tạng Tỳ-kheo, tức nay chính là Phật A-di đà.

Pháp Tạng Tỳ-kheo phát 48 đại nguyện trước Thế Tự Tại Vương Phật, vì cứu độ chúng sanh, tinh tấn tu hành, nhập Bồ-tát địa. Trong thì tu huệ, ngoài thì tu phước. Đối với tất cả thế gian, không gì không biết, không gì không thấy. Lại thác sanh trong tất cả chúng sanh, để giáo hoá. Cho nên trên từ thiên đế, dưới đếncôn trùng, không loài nào là không khiến họ sanh về Cực Lạc.

Nguyện Xong Thành Phật

Đại bổn kinh nói: Phật A-di-đà, trải qua đại a-tăng-kỳ kiếp, hành Bồ-tát hạnh, không từ các khổ, thường ban áo quần, ăn uống, âm nhạc, cho đến các vật dụng cần thiết tối thượng cho chúng sanh, khiến họ hoan hỷ.

Phát tâm vô thượng Bồ-đề, mới được thành tựu 48 lời nguyện trước, mà thành Phật. Do đó vô lượng chúng sanh trong mười phương, một niệm quy y, liền sanh nước ấy.

Bốn mươi tám nguyện:

Nguyn thnht: khi tôi thành Phật, thì trong nước tôi không có địa ngục, ngạ quỷ, cầm thú, thậm chí không có côn trùng nhỏ nhít, không được như thế tôikhông thành Phật.

Nguyn thhai: khi tôi thành Phật, thì trong nước tôi không có phụ nữ, chư thiên các cõi nước, thậm chí côn trùng nhỏ nhít sanh ở nước tôi, đều sanh ra từ hoa sen trong ao thất bảo, không được như thế tôi không thành Phật.

Nguyn thba: khi tôi thành Phật, thì trong nước tôi khi ai nghĩ đến ăn uống, hàng trăm món ngon được đựng trong chén ngọc hiện ngay trước mắt. Ăn xong chén bát tự biến mất, không được như thế tôi không thành Phật.

Nguyn thứ tư: khi tôi thành Phật, thì người trong nước tôi, nghĩ đến áo quần liền hiện trên thân, không phải cắt may giặt nhuộm, không được như thế tôi không thành Phật.

Nguyn thứ năm: khi tôi thành Phật, thì trong nước tôi từ mặt đất cho đến hư không, nhà cửa, lầu các, dòng sông, cây cối, đều được làm bằng vô lượng châu báu, trăm ngàn thứ hương thơm, kỳ diệu thù thắng không đâu hơn, không được như thế tôi không thành Phật.

Nguyn thsáu: khi tôi thành Phật, thì người trong nước tôi, chỉ thương yêu nhau không đố kỵ nhau, không được như thế tôi không thành Phật.

Nguyn thby: khi tôi thành Phật, thì người trong nước tôi, hoàn toàn không có tâm dâm dật, sân hận, ngu si, không được như thế tôi không thành Phật.

Nguyn thtám: khi tôi thành Phật, thì người trong nước tôi chỉ một lòng tốt, ai muốn nói gì người kia đã biết, không được như thế tôi không thành Phật.

Nguyn thchín: khi tôi thành Phật, thì người trong cõi nước tôi, không nghe đến cái tên bất thiện, huống hồ là thật có, không được như thế tôi không thành Phật.

Nguyn thứ mười: khi tôi thành Phật, thì người trong cõi nước tôi, biết thân như huyễn không tâm tham trước, không được như thế tôi không thành Phật.

Nguyn thứ mười mt: khi tôi thành Phật, trong nước tôi tuy có người, trời khác nhau, nhưng hình dung đều một màu sắc vàng, mặt mày đoan chánh đẹp đẽ, không được như thế tôi không thành Phật.

Nguyn thứ mười hai: khi tôi thành Phật, cho dù vô số chư thiên của vô số thế giới trong mười phương, cho đến các loại côn trùng nhỏ nhít, đều được làm người, đều làm Thanh-văn, Duyên-giác, đều toạ thiền nhất tâm, muốn tính đếm tuổi thọ những người trong cõi nước tôi, mấy thiên ức vạn kiếp không ai đếm được, không được như thế tôi không thành Phật.

Nguyn thứ mười ba: khi tôi thành Phật, cho dù vô số chư thiên của vô số thế giới trong mười phương, cho đến các loại côn trùng nhỏ nhít, đều được làm người, đều làm Thanh-văn, Duyên-giác, đều toạ thiền nhất tâm, muốn tính đếm số người trong cõi nước tôi, mấy ngàn ức vạn không ai đếm được, không được như thế tôi không thành Phật.

Nguyn thứ mười bn: khi tôi thành Phật, thì người trong nước tôi tuổi thọ là vô số kiếp, không ai có khả năng tính đếm, không được như thế tôi không thành Phật.

Nguyn thứ mười lăm: khi tôi thành Phật, thì người trong cõi nước tôi, đều được niềm vui của một vị Tỳ-khưu A-la-hán, không được như thế tôi không thành Phật.

Nguyn thứ mười sáu: khi tôi thành Phật, thì người trong cõi nước tôi ở vào ngôi vị chánh tín, lìa điên đảo tưởng viễn ly phân biệt, các căn tịch tĩnh Niết-bàn, không được như thế tôi không thành Phật.

Nguyện thứ mười bảy: khi tôi thành Phật, nói kinh hành đạo gấp mười chư Phật, không được như thế tôi không thành Phật.

Nguyn thứ mười tám: khi tôi thành Phật, thì người trong cõi nước tôi đều thấy được kiếp trước của mình, biết hết việc của trăm ngàn ức na-do-tha kiếp, không được như thế tôi không thành Phật.

Nguyn thứ mười chín: khi tôi thành Phật, thì người trong cõi nước tôi, hết thảy đều được thiên nhãn, thấy trăm ngàn ức na-do-tha thế giới, không được như thế tôi không thành Phật.

Nguyn thứ hai mươi: khi tôi thành Phật, thì người trong cõi nước tôi, tất cả đều được thiên nhĩ, nghe hết tiếng thuyết pháp của trăm ngàn ức na-do-tha chư Phật, đồng thời thọ trì trọn vẹn, không được như thế tôi không thành Phật.

Nguyn thứ hai mươi mốt: khi tôi thành Phật, thì người trong cõi nước tôi được tha tâm trí, biết tâm niệm của chúng sanh trăm ngàn ức na-do-tha thế giới, không được như thế tôi không thành Phật.

Nguyn thứ hai mươi hai: khi tôi thành Phật, thì người trong cõi nước tôi đều được thần túc, chỉ trong một niệm, đi khắp trăm ngàn ức na-do-tha thế giới, không được như thế tôi không thành Phật.

Nguyn thứ hai mươi ba: khi tôi thành Phật danh hiệu tôi vang khắp vô số thế giới trong mười phương, hết thảy chư Phật trong vô số thế giới đều khen công đức và quốc độ tôi là thù thắng hơn hết, trời người cho đến côn trùng nhỏ nhít, khi nghe danh hiệu tôi mà sanh lòng vui mừng, hoan hỉ, tất cả sau khi chết đều được sanh lên nước tôi, không được như thế tôi không thành Phật.

Nguyn thứ hai mươi bốn: khi tôi thành Phật, thì ánh sáng trên đỉnh đầu tôi tuyệt diệu hơn cả ánh sáng mặt trăng mặt trời trăm ngàn ức vạn lần, không được như thế tôi không thành Phật.

Nguyn thứ hai mươi lăm: khi tôi thành Phật, thì ánh sáng chiếu vào vô lượng chỗ u tối, tất cả đều được sáng rỡ, trời người cho đến côn trùng nhỏ nhít, thấy ánh sáng tôi, tất cả đều sanh từ tâm, đời sau sanh vào nước tôi, không được như thế tôi không thành Phật.

Nguyn thứ hai mươi sáu: khi tôi thành Phật, trời người trong vô số thế giới trong mười phương, cho đến côn trùng nhỏ nhít, nhờ ánh sáng tôi chiếu vào thân chúng, nên thân tâm từ hoà hơn cả trời người, không được như thế tôi không thành Phật.

Nguyn thứ hai mươi bảy: khi tôi thành Phật, thì trời người trong vô lượng vô số thế giới trong mười phương, ai phát tâm bồ-đề, thọ trì trai giới, hành sáu pháp Ba-la-mật[1](pāramitā), tu các công đức, chí tâm phát nguyện muốn sanh nước tôi, khi mạng sắp chung tôi cùng đại chúng, hiện ra trước mặt người ấy tiếp dẫn vãng sanh, người ấy đắc quả vị Bồ-tát bất thối chuyển, không được như thế tôi không thành Phật.

Nguyn thứ hai mươi tám: khi tôi thành Phật, thì trời người trong vô lượng vô số thế giới trong mười phương, nghe danh hiệu tôi, đốt đèn thắp hương rải hoa, cúng dường trai tăng xây dựng chùa tháp, trai giới thanh tịnh làm nhiều việc lành, một lòng ghi nhớ đến tôi, tuy chỉ một ngày đêm, cũng được sanh vào nước tôi, không được như thế tôi không thành Phật.

Nguyn thứ hai mươi chín: khi tôi thành Phật, thì trời người trong vô lượng vô số thế giới trong mười phương, một lòng tin vui muốn sanh nước tôi, chỉ cần niệm mười danh hiệu liền được vãng sanh, không được như thế tôi không thành Phật.

Nguyn thứ ba mươi: khi tôi thành Phật, thì trời người trong vô lượng vô số thế giới trong mười phương, cho đến côn trùng nhỏ nhít, đời trước tạo nghiệp, nghe danh hiệu tôi liền sám hối làm lành, thọ trì kinh giới nguyện sanh nước tôi, sau khi chết không bị đoạ trong ba đường ác, sanh thẳng lên nước tôi, không một ước muốn nào không được toại ý, không được như thế tôi không thành Phật.

Nguyn thứ ba mươi mốt: khi tôi thành Phật, thì trời người trong vô lượng vô số thế giới trong mười phương, nghe danh hiệu tôi, đảnh lễ năm vóc sát đất,tin vui tu hạnh Bồ-tát, trời người không ai không hếtsức thành kính, không được như thế tôi không thànhPhật.

Nguyn thứ ba mươi hai: khi tôi thành Phật, thì hết thảy người nữ trong vô lượng vô số thế giới trong mười phương, nghe danh hiệu tôi, tin ưa, phát tâm bồ-đề chán ghét thân nữ, sau khi mạng chung không còn trở lại làm thân nữ, không được như thế tôi không thành Phật.

Nguyn thứ ba mươi ba: khi tôi thành Phật, thì bất cứ chúng sanh nào sanh lên nước tôi, một đời được bổ xứ làm Phật, chỉ trừ những ai nguyện sanh cõi khác, giáo hoá chúng sanh tu Bồ-tát hạnh, cúng dường chư Phật tự tại vãng sanh, tôi dùng sức oai thần, làm cho người ấy giáo hoá tất cả chúng sanh đều phát tín tâm, tu hạnh bồ-đề, hạnh Phổ Hiền, hạnh tịch diệt, hạnh tịnh phạm, hạnh tối thắng và tất cả các hạnh lành, không được như thế tôi không thành Phật.

Nguyn thứ ba mươi bốn: khi tôi thành Phật, thì những người trong nước tôi muốn sanh nước khác, đều được như nguyện không phải rơi trở lại trong ba đường ác, không được như thế tôi không thành Phật.

Nguyn thứ ba mươi lăm: khi tôi thành Phật, thì chư Bồ-tát trong nước lấy hương hoa phướn lọng chân châu anh lạc… đến vô lượng thế giới khác cúng dường chư Phật, trong khoảnh khắc một bữa ăn là đi cùng khắp, không được như thế tôi không thành Phật.

Nguyn thứ ba mươi sáu: khi tôi thành Phật, chư Bồ-tát trong nước muốn ngàn vạn đồ vật để cúng dường vô lượng chư Phật trong mười phương, thì ngàn vạn đồ vật hiện đủ trước mặt, trong ngày hôm đó chưa đến giờ ngọ đã về đến nước, không được như thế tôi không thành Phật.

Nguyn thứ ba mươi bảy: khi tôi thành Phật, chư Bồ-tát trong nước thọ trì kinh pháp, phúng tụng tuyên thuyết, chắc chắn được trí tuệ biện tài, không được như thế tôi không thành Phật.

Nguyn thứ ba mươi tám: khi tôi thành Phật, chư Bồ-tát trong nước có khả năng diễn thuyết tất cả pháp, trí tuệ biện tài của họ không thể hạn lượng, không được như thế tôi không thành Phật.

Nguyn thứ ba mươi chín: khi tôi thành Phật, thì chư Bồ-tát trong nước được sức kim cang na-la-diên, thân họ đều màu hoàng kim sắc tía, đủ 32 tướng tốt 80 vẻ đẹp, thuyết kinh hành đạo không khác chư Phật, không được như thế tôi không thành Phật.

Nguyn thbốn mươi: khi tôi thành Phật, sự thanh tịnh trong nước tôi chiếu thấy vô lượng thế giới trong mười phương, Bồ-tát muốn thấy tất cả cõi Phật nghiêm tịnh trong cây bảo thọ, liền hiện ra ngay như cầm gương soi mặt, không được như thế tôi không thành Phật.

Nguyn thbốn mươi mốt: khi tôi thành Phật, thì những Bồ-tát trong nước tuy ít công đức cũng thấy biết được cây đạo tràng cao 4000 do-tuần của tôi, không được như thế tôi không thành Phật.

Nguyn thbốn mươi hai: khi tôi thành Phật, trời người và vạn vật trong nước, đều phát ra ánh sáng đặc biệt, vi diệu vô lượng không thể tán thán, chúng sanh được thiên nhãn nhiều không thể tính đếm, không được như thế tôi không thành Phật.

Nguyn thbốn mươi ba: khi tôi thành Phật, thì những người trong nước tôi tuỳ theo chí nguyện, muốn nghe pháp gì tức liền được nghe, không được như thế tôi không thành Phật.

Nguyn thbốn mươi bốn: khi tôi thành Phật, thì chư Bồ-tát Thanh-văn trong nước đều trí tuệ thành thần, trên đảnh đều có ánh sáng phát ra âm thanh, nói kinh hành đạo không khác chư Phật, không được như thế tôi không thành Phật.

Nguyn thbốn mươi lăm: khi tôi thành Phật, thì chúng sanh ở các thế giới khác, nghe danh hiệu tôi quy y, tinh tấn, đều được Tam-muội thanh tịnh giải thoát, trong Tam-muội ấy trong tích tắc khởi ý, cúng dường chư Phật không thể nghĩ bàn, nhưng không mất định ý, không được như thế tôi không thành Phật.

Nguyn thbốn mươi sáu: khi tôi thành Phật, thì chúng sanh ở các thế giới khác, nghe danh hiệu tôi quy y, tinh tấn, đều được Tam-muội Phổ đẳng, cho đến thành Phật, thường thấy vô lượng không thể nghĩ bàn tất cả chư Phật, không được như thế tôi không thành Phật.

Nguyn thbốn mươi bảy: khi tôi thành Phật, thì chúng sanh ở các thế giới khác, nghe danh hiệu tôi quy y, tinh tiến, liền được quả bất thối chuyển, không được như thế tôi không thành Phật.

Nguyn thbốn mươi tám: khi tôi thành Phật, thì chúng sanh ở các thế giới khác, nghe danh hiệu tôi quy y, tinh tiến, liền được tuần tự tam pháp nhẫn, không còn thoái chuyển trong Phật pháp, không được như thế tôi không thành Phật.

Phật bảo: Lúc ấy Tỳ-kheo Pháp Tạng phát 48 lời nguyện này xong, đại địa chấn động, trời mưa hoa báu, trên không trung có lời khen rằng: Pháp Tạng Tỳ-kheo nhất định thành Phật.

Đắc Như Lai danh

Tiểu bổn kinh nói: Xá-lợi-phất, ông có biết vì sao đức Phật ấy có tên là A-di-đà không? Xá-lợi-phất, ánh sáng vô lượng của đức Phật ấy, chiếu khắp các quốc độ trong mười phương mà không bị trở ngại, nên có tên là A-di-đà. Xá-lợi-phất, thọ mạng của đức Phật ấy và nhân dân trên cõi Cực-lạc là vô lượng vô biên vô số kiếp không thể tính đếm, nên có tên là A-di-đà.

Đường Vũ Bảo Trì

Đại bổn kinh nói: Phật A-di-đà, giảng đường tinh xá, đều bằng thất bảo. Lại dùng thất bảo để tạo các lan can của lầu các, hơn chỗ ở của Thiên Đế Thích của Lục Dục Thiên của thế giới này trăm ngàn vạn lần.

Ngoài ra cung điện của Bồ-tát, Thanh-văn, cũng lại như thế. Trời người ở đó, áo quần ăn uống, nhạc trời vi diệu, tuỳ ý hiện ra. Cung điện lầu các, tuỳ theo hình sắc mà cao thấp lớn nhỏ, được làm bằng một hai loại châu báu, cho đến vô lượng châu báu, đều hoá hiện mà thành. Song, các cung điện ấy, có cái theo ý lớn nhỏ cao thấp, lơ lửng trong không; có cái không thể theo ý lớn nhỏ, nằm trên mặt đất, là do đời trước khi tu đạo, đức có dày mỏng. Chỉ có áo quần ăn uống, là như nhau. Trong ngoài cung điện, lại có suối nước chảy và hồ tự nhiên. Suối hồ nào được làm bằng một hai loại châu báu, thì cát dưới hồ cũng được làm bằng một hai loại châu báu; Như hồ bằng vàng, thì cát bằng bạc; hồ bằng thuỷ tinh, thì cát bằng lưu li. Nếu hồ nào được làm bằng ba bốn loại châu báu, cho đến bảy loại châu báu, thì cát dưới đáy hồ cũng như thế. Trong hồ đều có nước tám công đức, thanh tịnh hương khiết, vị như cam lộ. Trong hồ lại có trăm loài hoa lạ, mỗi cành ngàn đoá hoa; ánh sáng màu sắc đã khác, mà hương thơm cũng khác, thơm nức, không thể diễn tả.

Thiên Nhạc Vũ Hoa

Tiểu bổn kinh nói: Nước Phật ấy thường trỗi nhạc trời, vàng làm đất, ngày đêm sáu thời mưa hoa trời mạn đà-la. Mọi người trên thế giới Cực-lạc thường vào buổi sáng, mỗi người mang một cái làn, nhặt đầy những hoa đẹp, đi cúng dường hàng chục vạn ức Phật trong mười phương, đến giờ ăn cơm, tất cả đều về lại nước của mình, ăn cơm xong rồi đi kinh hành.

Trì Ngạn Hoa Thọ

Đại bổn kinh nói: Bờ các hồ báu, có vô số cây chiên đàn, hoa quả cát tường, hương thơm bay khắp. Lại có hoa sen đủ màu, che kín mặt nước. Lại có hàng cây bảy báu, những hàng cây nào được làm bằng một loại châu báu, thì cành lá hoa quả của chúng cũng đều bằng một loại châu báu… Như vậy như nhau, cành cành chuẩn nhau, hoa hoa thuận nhau, quả quả giống nhau, cho đến đầy khắp thế giới, không thể nhìn hết

[1]Sáu ba-la-mật: bố thí ba-la-mật, trì giới ba-la-mật, nhẫn nhục ba-la-mật, tinh tấn ba-la-mật, thiền định ba-la-mật, trí huệ ba-la-mật.