An Sĩ Toàn Thư – Tập 52 (Vạn Thiện Tiên Tư Tập – Tập 12)
Khuất sư phóng sanh cá ở Thôn Nguyên mà được tăng 12 tuổi. Tuỳ Hầu cứu rắn ở rừng Tề mà được báo đáp ngàn vàng.
Thuyết minh:
Phóng sanh cá là: Khuất sư là người Nguyên Thôn, một hôm thấy ngư ông tay xách một con cá chép hồng, con cá ngước nhìn Khuất Sư, giãy giụa như muốn cầu cứu. Khuất sư thương tình, liền mua phóng sanh.
Sau Khuất sư mộng thấy Long vương mời xuống Long cung, Long vương nói: “tiên sinh vốn thọ mạng đã hết, nhưng nhờ cứu con ta, tăng thọ được 12 tuổi.”
Cứu rắn là: Hán Cơ Tánh chư hầu Tuỳ Hầu, một lần nọ đi xứ nước Tề, trên đường gặp một con rắn, đang quằn quại trong sa mạc nóng, đầu chảy máu. Tuỳ Hầu thương xót, vội hái thuốc chữa trị, sau đó đưa đến bờ nước để rắn khôi phục thể lực, rồi mới đi tiếp.
Sau Tuỳ Hầu từ nước Tề trở về, lúc đi ngang qua đường đó, thấy con rắn ấy miệng ngậm hạt châu, đợi để tặng Tuỳ Hầu, để báo ân cứu mạng. Tuỳ Hầu biết, nhưng không dám lấy.
Đêm hôm đó, Tuỳ Hầu mộng thấy chân giẫm con rắn, thất kinh tỉnh dậy nhìn, thì phát hiện trên đầu giường hai viên ngọc sáng loáng, đường kính một phân, trắng bạch, phát sáng trong đêm, chiếu sáng cả nhà, người đời gọi là ngọc Tuỳ Hầu.
Cứu ruồi thợ nấu rượu miễn tội oan, cứu ba ba cô đầu bếp hết bệnh.
Thuyết minh:
Cứu ruồi là: Có một thợ rượu, mỗi khi thấy ruồi sa vào hũ rượu liền lập tức vớt ra, bỏ nơi khô ráo cho ruồi bay đi. Như vậy năm này qua tháng khác, ông đã cứu ruồi nhiều vô số.
Một lần nọ, thợ rượu bị bọn đạo tặc vu khống, không cách gì minh oan, tội danh sắp được thành lập, khi quan chủ thẩm quyết định đặt bút ký, thì vô số ruồi từ đâu bay đến đầy ngọn bút. Đuổi đi chúng lại bay đến, khiến ông không thể nào ký được. Thẩm phán quan hoài nghi trong đó chắc có oan tình, liền thẩm tra lại kỹ càng, mới biết là bị vu cáo.
Khi bọn đạo tặc bị bắt, thẩm vấn nghiêm khắc, chúng mới thừa nhận là đã vu khống, thế là oan tình được rõ, thợ rượu được thả. Những việc báo ân như ruồi, xưa nay ít nghe, Phật nói: “những loài bò bay cựa động, đều có linh tánh.” Nhân quả tương báo, cũng không có gì là lạ.
Thả ba ba là: Hai vợ chồng Trình thị thường ngày thích ăn thịt ba ba. Một lần nọ tình cờ mua về một con ba ba lớn, dặn dò đầu bếp giết nấu, lúc đó hai vợ chồng có việc phải đi ra ngoài. Cô đầu bếp nghĩ: “Chính tay ta đã giết không biết bao nhiêu con ba ba rồi, hôm nay ta nhất định phải thả con ba ba lớn này, chấp nhận bị đánh chửi, không nỡ giết thêm nữa.”
Thế là cô len lén mang ba ba thả trong hồ. Đến bữa ăn, hai vợ chồng hỏi thịt ba ba đâu, cô đầu bếp trả lời: “vừa rồi con không chú ý, nó chạy mất rồi.” Bà vợ tức giận, đánh tới tấp vào cô đầu bếp, đánh mãi cho đến hả hê mới thôi. Tội cho cô đầu bếp, thương tích đầy mình, nhưng chịu đau không nói một lời.
Sau có một lần nọ, cô đầu bếp bị nhiễm ôn dịch, sốt cao, hơi thở thoi thóp, chủ nhà sợ cô ta chết trong nhà, mới mang cô ta bỏ trong một cái thất bên bờ hồ, để chết ở đó.
Tối hôm ấy, bỗng có một con vật bò từ dưới bờ hồ lên, mình đầy bùn, cọ sát vào thân cô đầu bếp, khiến cô cảm thấy rất mát mẻ, khoẻ khoắn, sốt cao nhân đó liền hạ, thế là hết bệnh. Chủ nhân kỳ quái bệnh cô ta nặng thế, không thuốc men gì, sao chuyển nhanh thế? Cô đầu bếp liền kể lại hết sự tình. Chủ nhân không tin, tối đến, lén ra xem, quả nhiên con ba ba lớn được thả kia bò đến cứu cô đầu bếp. Cả nhà cảm thán, từ đó vĩnh viễn không ăn thịt ba ba nữa!
Đổi mạng chết ở lò mổ, Trương Đề Hình hồn siêu thiên giới; thả thuỷ tộc ở thuyền câu, Lý Cảnh Văn được giải đơn sa.
Thuyết minh:
Đổi mạng ở lò mổ là: Trương Đề Hình, thường đến nhà đồ tể, thấy các con vật bị trói, bị giết, hoảng sợ đau đớn, kêu gào. Trương Đề Hình trong lòng không nỡ, không tiếc tiền tài, mua về hết, thả vào trong rừng. Hàng ngày chỉ cần có tiền, là ông đi đến chỗ giết mổ, nhiều ngày như thế, ông đã cứu không biết bao nhiêu con vật.
Sau Trương Đề Hình mạng chung, biết trước giờ chết, nói với mọi người rằng: “tôi một đời từ tâm cứu mạng chúng sanh, tích công luỹ đức sâu dày, nay người của cung trời đến đón, tôi sắp lên thiên giới đây.” Nói xong, không bệnh mà đi.
Thả thuỷ tộc ở thuyền câu là: Lý Cảnh Văn từ tâm ái hộ động vật, mỗi khi quan sơn ngoạn thuỷ, thấy người đánh cá đánh bắt thuỷ tộc, là không tiếc tiền tài, mua hết, rồi lại thả xuống sông, cho chúng tự do bơi lội. Cảnh Văn hàng ngày thích uống dưỡng sinh bổ phẩm, thường uống đơn sa được luyện bằng lửa, lâu ngày nhiệt khí lên cao, biến thành bệnh, trên lưng nổi nhiều mụn độc, mời danh y chữa trị, dùng đủ thứ thuốc, nhưng vẫn không công hiệu, bệnh tình mỗi ngày một nặng.
Một hôm nọ, trong khi hôn mê, giống như có một bầy cá dùng tân dịch xoa lên mụn độc của ông, khiến ông cảm thấy mát mẻ, sảng khoái vô cùng.
Hôm sau, mụn độc dần dần tiêu mủ, bệnh nhờ đó được lành. Việc này giống với sự báo ân của con ba ba.
Tôn Lương Tự giải phóng cho chim, đến khi chết chim về chôn cất; huyện lệnh Phan cấm đánh bắt cá, khi vào kinh thuỷ tộc kêu gào.
Thuyết minh:
Giải phóng cho chim là: Tôn Lương Tự là một hương dân nhân từ, tuy gia cảnh nghèo, nhưng mỗi khi thấy con chim nào bị bắt, nhốt trong lồng, là tìm cách kiếm tiền mua phóng sanh.
Mỗi khi mở cửa lồng, thấy chim sung sướng bay ra, được tự do, là lòng ông cảm thấy vô cùng sung sướng. Sau Tôn Lương Tự mạng chung, tử thi được mang ra ngoài đồng, do nhà nghèo không có táng phí, nên thi thể không được chôn cất đàng hoàng. Bỗng nhiên có hàng vạn con chim bay tới, miệng ngậm đất, nhả lên thi thể Tôn Lương Tự. Chưa đến một ngày, đã thành ngôi mộ khá cao. Người trong thôn thấy vậy, đều cảm thán không thôi! Mọi người đều thấy rằng đây là nhờ lòng từ phóng sanh chim của Tôn Lương Tự, mà được chim báo đáp.
Cấm đánh bắt cá là: Thời nhà Tống, Phan Hoa, huyện lệnh Chư Ký là một Phật giáo đồ kiền thành, tu tập Phổ Hiền sám pháp, có đức hiếu sinh, vạn vật hoà lạc. Ông nghiêm cấm dân địa phương, không được đánh bắt cá. Ai vi phạm, đều chịu hình phạt. Do đó trong thời gian nhiệm kỳ của huyện lệnh Phan, loài thuỷ tộc không một mối lo, tự do tung tăng trong nước. Sau huyện lệnh Phan phụng chỉ, sắp vào làm quan trong triều, đêm mộng thấy hàng vạn loài cá khóc lóc, nói: “trưởng giả sắp rời nơi đây, chúng tôi không tránh khỏi bị đánh bắt.” Nói xong chúng lại khóc rống lên. Huyện lệnh Phan tỉnh dậy thâm cảm kỳ lạ, liền viết “Mộng Ngư Ký”, dặn dò huyện lệnh nhiệm kỳ tới, cũng nên bảo hộ thuỷ tộc. Lúc huyện lệnh Phan sắp đi, trong các sông hồ, bỗng nhiên phát ra âm thanh rất là bi thương, giống như đã mất đi sự bảo hộ, thống thiết như mất cha mẹ vậy, người dân phụ cận tất cả đều nghe thấy, mọi người không ai là không kinh ngạc cảm thán!
Đại sư Tín bỏ vật hy sinh, trời mưa cam lộ; Lục tổ giữ lưới của thợ săn, đạo rãi khắp Thần Châu.
Thuyết minh:
Bỏ vật hy sinh là: Một lần nọ, trời hạn nặng, ngũ cốc bị thiêu rụi hết, người dân đối mặt với đói kém, lo sợ không yên, mọi người bàn nhau phải giết vật hy sinh để cúng cầu mưa.
Đại sư Tín thấy cách làm ngu si như vậy của mọi người, mới sanh thương cảm, nói với mọi người rằng: “sát hại chúng sanh, để cầu trời mưa, là hành vi ngu muội trái với lý trời, trời có đức hiếu sanh, mọi người làm như vậy, không những không cầu được mưa, mà ngược lại còn tạo tội, sẽ gặt tai ương. Nếu mọi người thả hết những vật hy sinh ấy đi, tôi sẽ đích thân cầu mưa cho.” Mọi người nghe theo, thấy có lý, nguyện làm theo lời đại sư, thả hết những con vật cúng. Thế là đại sư liền bày hương án, tinh thành cầu đảo, trời lập tức mưa xuống, nhân dân vui mừng khôn xiết, nhân dân xa gần đều được cảm hoá.
Giữ lưới là: Lục Tổ đã được tâm ấn của Hoàng ma. Sau khi nhận y bát, do có những người ác tâm đuổi theo, nên vẫn mặc đồ thế tục, ẩn cư sống với đám thợ săn. Do Lục Tổ không biết săn bắn, nên bọn thợ săn đã cho Lục Tổ trông coi lưới. Lục Tổ mỗi khi thấy không có ai, liền thả hết những con thú mắc lưới ra, cho chúng chạy hết. Như thế trải qua 16 năm, loài thú được cứu vô số.
Sau thời tiết nhân duyên thành thục, Lục Tổ liền đến đông nam huyện Khúc Giang tỉnh Quảng Đông, kiến lập đạo tràng Tào Khê, đại hưng Phật pháp, như đèn truyền chiếu, quảng độ quần sanh. Pháp mạch được chia làm năm phái, những người nhập thánh siêu phàm nhiều vô số.
Cứu Hoàng Tước được báo ân, thả cáo thoát nạn rơi giếng.
Thuyết minh:
Hoàng Tước báo ân là: Dương bảo lúc lên 9 tuổi, một lần nọ đến phía bắc núi Hoa Âm, thấy một con Hoàng Tước bị con cú vọ đuổi bắt làm cho bị thương, rơi dưới gốc cây. Lại bị rất nhiều kiến cắn. Hoàng Tước đau đớn giãy giụa, Dương Bảo thương tình, phủi kiến mang về chữa trị, chăm sóc cẩn thận, khi vết thương lành, đủ lông cánh, rồi thả cho bay đi.
Đêm ấy Dương Bảo mộng thấy một bé trai áo vàng, lạy Dương Bảo ba lạy nói: “tôi là sứ giả Tây Vương mẫu, trên đường bay đến núi Bồng Lai, thì bị hại, nhờ ân đức chăm sóc cứu chữa, bây giờ tôi phải về biển nam rồi.” Nói xong, liền tặng Dương Bảo bốn viên bạch ngọc. Sứ giả nói tiếp: “Chúc con cháu cậu sau này thanh bạch, quan làm đến tam công, giống như viên ngọc này vậy.”
Sau con cháu Dương Bảo bốn đời Dương Chấn, Dương Bỉnh, Dương Tứ, Dương Bưu, quả nhiên đều làm quan đến tam công, thanh bạch liêm khiết, quý hiển không ai bằng.
Thoát nạn rơi giếng là: Xưa có một thầy tu nọ, không chịu tu hành đàng hoàng, lại có tài đầu cơ. Nghe nói Hoàng Tinh thuốc bắc có thể trường sanh bất lão. Để thử nghiệm có đúng hay không, thầy mới mang Hoàng tinh để dưới một cái giếng khô, rồi dụ một người xuống giếng, lấy Ma Bàn tấn miệng giếng lại.
Người bị hại trong lúc đang hoảng sợ, thì bỗng nhiên có một con cáo tiên, ghé miệng nói với người trong giếng rằng: “Xin ông đừng sợ, tôi sẽ bày ông cách thoát ra. Tôi là cáo tiên thông hiểu thiên đạo, đào hang sống trong ngôi mộ, nằm trong hang, mắt nhìn trong hang, lâu ngày, thì có thể bay ra được. Đó chính là lý ‘thần năng phi hình’ mà trong kinh đạo nói. Ông hãy chú tâm nhìn vào cái lỗ của Ma Bàn, lâu ngày thì bay ra được. Trước đây tôi bị thợ săn bắt, nhờ ông từ bi chuộc mạng tôi, do đó hôm nay đặc biệt đến để đền ơn, xin ông nghe theo.” Người bị hại liền theo cách của cáo tiên, qua hơn mười ngày, quả nhiên bay ra được khỏi miệng giếng, thoát nạn. Thầy tu vui mừng, cho rằng đó là công hiệu của Hoàng tinh. Thế là từ biệt mọi người, mang Hoàng tinh xuống giếng, dặn dò mọi người đậy Ma bàn lên, không ngờ qua nửa tháng, mở miệng giếng ra, thầy đã chết dưới giếng tự lúc nào. Thật là đáng thương!
Thì ra thầy ấy không biết người bị ông hại trước thoát khỏi miệng giếng là nhờ cáo tiên đến cứu báo ân cũ. Thương ôi!.
Cho đến tàn thân được mạng, bạch bích nghe kinh; chốn khó cầu sanh, hiện hoàng y mà báo mộng.
Thuyết minh:
Bạch bích nghe kinh là: Đại sư Liên Trì hành cước tá túc ở một ngôi chùa nọ, thấy mọi người bắt rất nhiều rết, dùng lạt tre buộc đầu buộc đuôi. Đại sư thương tình mua về phóng sanh, nhưng phần lớn đều chết nửa mình, chỉ còn một con còn sống, liền vội vàng bò đi.
Một đêm nọ, đại sư đang ngồi nói chuyện với một người bạn, thì trên tường bỗng nhiên xuất hiện một con rết. Đại sư lấy gậy gõ gõ đuổi đi, muốn đuổi nó đi, nhưng nó không đi. Đại sư nói: “chẳng nhẽ con rết mà ta phóng sanh chính là ngươi sao?”
Ngươi vì muốn tạ ơn mà đến đây sao? Nếu đúng vậy, ta sẽ nói pháp cho ngươi, mong ngươi chú ý lắng nghe:“tất cả chúng sanh, đều do tâm tạo. Tâm địa hung dữ, thì làm lang sói; tâm địa ác độc, thì làm rắn rết. Ngươi nếu trừ bỏ tâm thâm độc, thì liền thoát được hình thể này.”
Nói xong bảo nó đi, không cần đuổi, nó từ từ leo qua cửa sổ. Người bạn ngồi cạnh, thấy vậy không ngớt tán thán!
Hoàng y báo mộng là: Năm thứ 9 niên hiệu Vạn Lịch thời Minh Thần tông, hàng xóm họ Vu cư dân Hồ Dã huyện Hàng Châu gặp cướp. Họ Vu có người con gái đã đi lấy chồng, nghe tin, liền về nhà an ủi mẹ, nhân tiện mang biếu mẹ mười con lươn. Họ Thị mang bỏ lươn trong chum, nhưng quên khuấy mất.
Một đêm nọ, họ Vu nằm mộng thấy mười người mặc áo vàng đội mũ nhọn quỳ trước mặt bà khóc lóc xin cứu mạng. Tỉnh dậy trong lòng hoài nghi lẫn lộn, không tiêu trừ được, liền đi coi bói lành dữ thế nào. Thầy bói nói với bà: “trong nhà có sanh linh đang xin bà phóng sanh.” Họ Vu về nhà tìm khắp trong nhà, liền thấy trong chum có lươn, đếm đúng là mười con, kinh ngạc, nghĩ: “lươn vì cầu sống, lại có thể hiện làm người áo vàng báo mộng cho ta, đúng là lươn cũng có tánh linh.” Thế là lập tức mang hết ra sông phóng sanh.
Mọi cho đi đều có báo đáp, sự việc có chứng cứ hẳn hoi.
Thuyết minh: Phóng sanh, hoặc được tăng phước, hoặc được sống lâu, hoặc khỏi nạn, hoặc khỏi bệnh, hoặc sanh thiên, hoặc chứng quả, tuỳ cho vật gì được quả báo ấy, chứng cứ đành rành. Song làm lành được phước, người tu, đâu có mong quả báo? Không mong quả báo mà quả báo tự đến, đó là lý nhân quả, người phóng sanh nên biết.
Được ghi lại đầy trong các sách, rõ ràng trước mắt.
Thuyết minh: Những điều ghi chép trên, xa thì là trong các sách, gần thì là ở trước mắt. Khảo nghiệm cổ kim, chắc chắn không dối.
Phổ nguyện thấy vật nơi đâu, đều phát từ tâm, bỏ tiền tài giả tạm, cứu vật phóng sanh, làm các phương tiện.
Thuyết minh: Dưới đây khuyên khắp mọi người, phát tâm từ bi, bỏ tài vật phương tiện cứu giúp. Tiền tài giả tạm, có nghĩa tiền tài là vật không bền chắc, có 5 đường để ra đi: 1. Nước trôi, 2. Lửa cháy, 3. Nhà nước tịch thu, 4. Trộm cướp, 5. Con cái phá tán. Tổn tài làm phước, gọi là lấy tiền tài giả tạm đổi lấy tiền tài bền chắc.
Nếu người không có tiền tài, thì chỉ phát tâm từ bi, cũng được phước lớn. Hoặc khuyên người phóng sanh, hoặc thấy người khác phóng sanh lòng vui theo, tăng trưởng thiện tâm, cũng là phước lớn.
Hoặc phóng sanh nhiều, tích nhiều âm đức. Không thì chỉ giúp một con, cũng là làm việc thiện.
Thuyết minh: Người có tiền thì phóng sanh nhiều, tất nhiên là công đức lớn; người không tiền, thả một con vật, cũng là thiện sự. Chớ cho rằng việc thiện nhỏ là vô ích mà không làm. Người đời không rõ lý này, chọn loài vật nhỏ nhiều con, mới chịu mua thả. Trên đường gặp chúng sanh thân lớn, bỏ qua; đây là tham phước cho mình, chẳng phải thương cái khổ của chúng sanh. Phước ấy rất nhỏ, cẩn thận! cẩn thận!
Ngày qua tháng lại, phước thiện tăng nhiều.
Thuyết minh: Việc thiện không có lớn nhỏ, chỉ quý ở chỗ lâu bền; ngày qua tháng lại, phước đức tự nhiều.
Lòng từ đầy khắp nhân gian, tiếng thơm thông thiên địa phủ.
Thuyết minh: Lòng từ tích chứa lâu, khắp đầy cả cõi người, lòng người đã tin, lòng trời ắt nhớ. Có người cho rằng trời cao vòi vọi, làm sao thông nhau? Đâu biết vào ngày lục trai, Thiên vương tuần du thiên hạ, ai làm ác ai làm thiện đều ghi vào sổ sách. Lại người hành thập thiên thì trời thắng, người tạo thập ác thì Tu-la thắng, nên Thiên đế lúc nào cũng muốn người làm thiện. Một người làm thiện, Thần vương lên trời báo cáo, kinh nói rõ ràng, không phải tự nói.
Lòng đầy từ bi, nhiều hạnh phúc ở đời này, còn bồi thiện căn, hạnh phúc cho đời khác.
Thuyết minh: Phóng sanh mà không giết, không gây oán cừu với chúng sanh. Chẳng phải chỉ an lạc đời nay, do thiện căn này, đời đời tương lai, trường thọ hạnh phúc lâu dài, cho đến thành Phật, vạn vật hữu tình đều hướng tâm về, hạnh phúc có dư.
Nếu niệm thêm danh hiệu Phật, tụng kinh sám.
Thuyết minh: Phóng sanh, tuy là việc thiện, nhưng chỉ cứu được sắc thân, chưa cho huệ mạng. Phải nên niệm thêm vạn đức hồng danh A-di-đà Phật, tụng các kinh điển đại thừa. Tuy nhiên, mua là phải thả liền, tụng kinh không tiện, chỉ niệm Phật cũng được. Còn nếu mua để cách đêm, hoặc sáng mua tối thả, đợi tụng kinh xong, thì thời gian quá lâu, sẽ bị chết nhiều. Phóng sanh như vậy, không ích chi.
Vì chúng hồi hướng Tây phương, khiến chúng vĩnh lìa ác đạo.
Thuyết minh: Công đức niệm Phật, nguyện những chúng sanh này sau khi mạng chung, được sanh về thế giới Cực Lạc, sanh trong hoa Sen, vào ngôi bất thoái, vĩnh viễn lìa khỏi ác đạo, dứt khổ luân hồi.
Thì tâm càng lớn, trồng đức càng sâu.
Thuyết minh: Thấy khổ phóng sanh, là tâm thiện, nay gọi đại Bồ–đề tâm, nên nói “càng lớn”. Phóng sanh được phước, trồng đức thế gian, nay gọi đức xuất thế, nên nói “càng sâu”.
Đạo nghiệp nhờ đó nhanh thành, đài sen thượng sanh cửu phẩm!
Thuyết minh: Tâm lớn đức sâu, việc ấy sao biết? Bởi lợi tha là hạnh của Bồ-tát, dùng hạnh môn này trợ tu đạo nghiệp, thí như thuyền gặp gió, chắc sẽ nhanh đến bờ kia. Ba phước của tịnh nghiệp, từ tâm bất sát đứng đầu. Nay đã không giết, lại thêm phóng sanh; đã phóng sanh, lại niệm Phật khiến sinh Tịnh độ, làm được như thế, khi thân hoại mạng chung, chắc chắn lên ngôi cửu phẩm không nghi. Khuyên khắp mọi người, đừng vì cho rằng mình đức bạc mà không tin lời ấy.