An Sĩ Toàn Thư – Tập 53 (Vạn Thiện Tiên Tư Tập – Tập 13)

Chú nguyện phóng sanh

Phóng sanh xong, đối trước Phật tiền, chí tâm lễ bái, bạch rằng: “Đệ tử tên… nhất tâm quy mạng Tây Phương Cực Lạc A-di-đà Phật. Con theo lời Phật dạy, nay phóng sanh, được bao nhiêu phước, với công đức này, mong cho con tội chướng tiêu trừ, oan khiên dứt sạch; thiện căn ngày một tăng trưởng, thân hoại mạng chung, thân tâm an ổn, chánh niệm rõ ràng, được Phật tiếp dẫn, sanh về nước an lạc, hoá sanh hoa sen, trong ao thất bảo. Hoa nở thấy Phật, được pháp vô sanh, đầy đủ Phật huệ; nhờ đại thần lực, tất cả những sanh mạng mà con phóng sanh, cho đến tất cả hữu tình khắp mười phương, đều được giải thoát, thành vô thượng đạo. Mong Phật từ bi, ai lân nhiếp thọ”. Phát nguyện xong, niệm Phật bao nhiêu biến tùy ý.

Nghi thức phóng sanh

Thuyết minh: Căn cứ cựu văn của pháp sư Lễ, có chút thêm bớt, để cho đơn giản dhành, sau thêm cu nguyn vãng sanh, li thêm phm Hồi Hướng ca kinh Hoa Nghiêm kết thúc. Ý muốn trước vãng sanh thế gii Cc Lc ca Pht A-di-đà sau nhập TLô Giá Na Hoa Tng Huyn Môn.

 Li ngày hè, phóng sanh lần đầu, chiếu theo nghi thc này nim tng, ri lin th; sau mang ti na, phóng tiếp, không nim tng na. Chniệm “chú Đại Bi” mt biến, “chú Vãng Sanh” ba biến, nim Pht A-diđà rồi phóng. Không cn phải như thả lần đầu, skéo dài, tn hoi sanh mng. Sau nếu mang ti na, cũng lại như thế.

Nơi chỗ phóng sanh, thiết trí hương án, dương chi tnh thuỷ. Đại chúng ly mt tnhìn chúng sanh, thương chúng trầm luân khổ ải. Li nghĩ đến Tam bảo có đại oai lc, có thcu giúp chúng. Quán như thế ri, tay cầm chén nước, nim thm rng:

Nht tâm phng thnh thập phương từ phqung đại linh cm Quán Thế Âm Btát, giáng lâm đạo tràng, gia trì nước này, đủ đại công huân, rưới lên chúng sanh, khiến chúng thân tâm thanh tnh, có khả năng nghe diệu pháp. Xong tụng “chú Đại Bi” mt biến, ry ba lần, sau đó bạch rằng: (ngưỡngbch)

“Thập phương Tam bảo, bổn sư Thích-ca, tphDi-đà, Bảo Thắng Như Lai, Bồ-tát Quán Âm, trưởng giả Lưu Thuỷ, đại sư Vĩnh Minh các đại sĩ… duy nguyn tbi, chng minh hnim”.

Nay có các chúng sanh cầm thú trên không dưới nước, bị người ta đánh bắt, sp vào chchết, (chúng con T-kheo…, cư sĩ…) thế là tu B-tát hnh, phát tâm tbi, tạo nhân trường th, hành nghip phóng sanh, mua các thân mng y, thả để chúng tự do. Nhưng thuận theo kinh điển Đại Tha Phương Đẳng, thì trao Tam Quy, niệm mười danh hiu, li nói cho chúng nghe 12 nhân duyên.

Oai đức Tam bo âm thm gia h, ai lân nhiếp th, bch rng:

Súc sanh quy y Pht, súc sanh quy y Pháp, súc sanh quy y Tăng;

Súc sanh quy y Phật lưỡng túc tôn, súc sanh quy y Pháp ly dc tôn, súc sanh quy y Tăng chúng trung tôn;

Súc sanh quy y Phật cánh, súc sanh quy y Pháp cánh, súc sanh quy y Tăng cánh. (đọc ba ln)

Này các Pht t, quý vị đã quy y Tam bo xong, nay ta vì quý vị xưng dương. Bo Thắng Như Lai thập hiệu công đức, khiến các ngươi được nghe, được sanh thiên như vô lượng cá kia không khác.

Nam Mô Bo Thắng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hnh Túc, Thin Th, Thế Gian Giải, Vô Tượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn (ba ln).

Này các Pht t, nay ta li nói 12 nhân duyên, tướng hoàn dit ca nhân duyên cho quý v, khiến quý vbiết pháp sanh dit, ngbt sanh dit, cùng với chư Phật, chứng đại Niết-bàn. Đó là vô minh duyên hành, hành duyên thc, thc duyên danh sc, danh sc duyên lc nhp, lc nhp duyên súc, súc duyên th, thduyên ái, ái duyên th, thduyên hu, hu duyên sanh, sanh duyên lão tử ưu bi khnão. Đó là vô minh diệt thì hành dit, hành dit thì thc dit, thc dit thì danh sc dit, danh sc dit thì lc nhp dit, lc nhp dit thì xúc dit, xúc dit thì thdit, thdit thì ái dit, ái dit thì thdit, thdit thì hu dit, hu dit thì sanh dit, sanh dit thì lão tử ưu bi khổ não dit.

Này các Pht tử, ta đã theo kinh đại tha trao tam quy, thp hiu, 12 nhân duyên cho quý vri, nay svì quý vị đối trước Tam bo, phát lsám hi, mong cho ti li ca quý v, sớm được tiêu tr, sanh vào chlành, gn gũi Pht pháp. Quý vphi chí tâm, sám hi theo tôi:

“Xưa con đã to bao ác nghiệp, đều do vô ththam sân si, tthân ming ý phát sanh ra, tt ccon nayđều sám hi”.

Nam mô Thanh Lương Địa B-tát ma-ha-tát (ba ln)

Mong cho sau khi được th, vĩnh vin không gp ác ma, không bị đánh bắt ăn nuốt, thong dong tti, sng hết tui tri; sau khi mạng chung, nương Tam bo lc, sc tbi bn nguyn ca Bo Thng Như Lai, sanh ra nơi cõi tri, cõi người, trì gii tu hành, không còn to ác, tín tâm nim Pht, tunguyn vãng sanh. Li mong cho chúng con… tnay vsau, Bđề hnh nguyn, nim niệm tăng trưởng, cu khchúng sanh, giống như ý mình; nhờ nhân duyên đó, được sanh An dưỡng, thy

Pht Di-đà, và các thánh chúng, chứng vô sanh nhn, phân thân khp cõi, quảng độ chúng sanh, đều thành chánh giác. Hin tiền đại chúng, đồng thanh tng nim thn chú vãng sanh Tịnh độ, chương Hồi Hướng ca kinh Hoa Nghiêm.

Phm Thp Hồi Hướng, kinh Đại Phương Qung Pht Hoa Nghiêm, tuthun kiên cnht thiết thiện căn hồi hướng. Pht t, B-tát ma ha tát làm đại quốc vương, tự tại đối vi pháp, ra chth, cm nghip sát. Cm hn sát sanh toàn cõi Diêm-phù đề.

Ban sự vô uý đến tt ccác loài không chân, hai chân, bn chân, nhiu chân, rng tu tt cB– tát hạnh, thương yêu tất cloài vt, làm cho chúng sanh an ổn, nơi chỗ các Phật, thường tan trba loi tnh gii, cũng làm cho chúng sanh an trụ như thế, B-tát Ma-ha-tát. Làm cho chúng sanh trtrong ngũ gii, vĩnh viễn đoạn trnghip sát, dùng thiện căn này, hồi hướng như thế. Đó là nguyện tt cchúng sanh phát Bđề tâm, đầy đủ trí tu, vĩnh vin giữ được thân mng, không có ngày mt; nguyn tt cchúng sanh sống vô lượng kiếp, cúng dường tt cPht, cung kính siêng năng tu hành, tăng thêm thọ mng; nguyn tt cả chúng sanh đầy đủ pháp hành lìa già bnh chết, tt ctai hokhông hại được thân th; nguyn tt cchúng sanh được thân không bnh kh, thmng tti, sng bao lâu cũng được; nguyn tt cchúng sanh thmạng vô lượng, tận cùng đời vị lai, giáo hoá điều phc tt cchúng sanh; nguyn tt cchúng sanh thiện căn đầy đủ, thành tựu đại nguyn; nguyn tt cả chúng sanh đều gặp chư Phật, cúng dường tha s, sống vô lượng tui, tu tp thiện căn; nguyn tt cchúng sanh ở nơi chỗ Pht, khéo tu tập, được thánh pháp h, sống vô lượng tui; nguyn tt cchúng sanh không bgià bnh chết, dũng mãnh tinh tn vào trí tuPhật. Đó là Tam Tụ Tnh gii ca B-tát Ma-ha-tát, vĩnh viễn đoạn trsát nghip, thiện căn hồi hướng, vì làm cho chúng sanh được thp lc viên mãn trí ca Pht.

Kế đến tng chú vãng sanh ba ln, tng xong bch rng:

Công đức phóng sanh trên đây, báo khắp bn ân, ba cõi được nh, pháp giới chúng sanh, đồng viên chng trí. Thập phương tam thế tt cPht, tt cB-tát Ma-ha-tát, ma-ha bát-nhã ba-la-mt.

Kệ “Giới Tửu Nhục Từ Huệ Pháp Môn”

Kệ “Giới Tửu Nhục Từ Huệ Pháp Môn” của từ Vân sám chủ Tuân Thức đời nhà Tống. Bài kệ này trích từ các kinh đại tiểu thừa “Kinh Lăng Già”, “kinh Ương Quật”, “Kinh Niết-bàn”, “Kinh Tát Giá Ni Càn”, “Kinh A Hàm”, “Kinh

Chánh Pháp Niệm”, do khi đọc tụng, chép ra thành 100 bài kệ, đặt tên “Giới Tửu Nhục Từ Huệ Pháp Môn”. Mong muốn hàng tín sĩ, do dự đọc kỹ, thâm tư hiện nghiệp, sợ hãi quả báo tương lai, hòn sắt nóng nước đồng sôi, đâu dễ nhẫn chịu.

Nam mô Phật Pháp Tăng, biển đại từ Tam bảo; nay con theo lời dạy, khuyên khắp các chúng sanh; chớ giết chớ ăn thịt, cùng chứa hạnh nhân từ; không bệnh mạng sống lâu, vị lai thành Phật đạo. Chư Phật đại Bồ-tát, thường vì cứu chúng sanh; bỏ đầu mắt tuỷ não, trải trăm ngàn vạn kiếp. Cắt thịt cho chim ưng, cứu kiến bỏ mạng rồng; Lưu Thuỷ cứu cá cạn, Tát đoả thân hiến cọp; trải nhiều kiếp hành từ, sức từ thiện thành tựu. Phật không tất cả tâm, duy chỉ một tâm từ; nếu có ai hành từ, không giết không ăn thịt; nguyện cho sức oai thần, đời đời thường gia hộ.

Sát sanh mà Phật nói, chính là giết cha mẹ, cũng là giết vợ con, anh em cùng thân quyến. Hết thảy nam cùng nữ, đều từng là cha mẹ; đời đời khi sanh ra, đều từ tinh huyết ấy; nhận một thân súc sanh, mỗi mỗi thân một loài, đời đời không tính kể; luân hồi trong sáu đường, qua lại làm quyến thuộc; nên ăn thịt chúng sanh, gọi ăn thịt cha mẹ.

Lại quán tất cả thân, đều là bản thể ta; thịt ta và thịt người, thật chỉ là một thịt; Như ở trước sau nhà, cũng gọi nhà của ta; nên biết ăn thịt người, chính là ăn thịt mình; Phật quán Như Lai tạng, cõi Phật cõi chúng sanh, một cõi không hai cõi, tất cả thịt chỉ một; người diễn đóng nhiều vai, thật chỉ là một người.

Nếu muốn giết chúng sanh, nên khởi tâm của Phật; thợ săn cùng đồ tể, người đánh bắt cá chim; chúng sanh thấy từ xa, đều sanh lòng sợ hãi; có nghĩa kẻ ác này, tham lợi và vị thịt, tay cầm tên đao bén, nghĩ muốn giết thân ta, chim bay và thú chạy, sợ hãi mà tránh xa.

Thường cùng các chúng sanh, khởi ý đại oán đối, tất cả đều tiếc mạng, người súc sanh không khác. Nếu muốn ăn chúng sanh, trước thử cắt thịt mình, chết là cái khổ lớn, ai mà không sợ nó. Chỉ cần tự quán thân, vì sao ăn thịt chúng, vì lợi giết chúng sanh, vì tiền giăng lưới bẫy, cả hai đều nghiệp sát, chết đoạ ngục Kêu La.

Bạn biết người sát sanh, chết rơi vào địa ngục, thành sắt cao tám vạn, bốn ngàn du-thiện-na, dài rộng cũng như thế. Trong thành đầy lửa dữ, nội ngoại đều đỏ rực; chó dữ canh bốn cửa, ngục tốt tiếng như sấm; hai mắt như ánh đèn, rượt đuổi người có tội. Vào trong mà chịu khổ, lực sĩ cầm giáo sắt, cán giáo dài một trượng, lưỡi giáo rộng tám tấc; đâm vào bụng tội nhân, xuyên thấu ra đằng sau; đau đớn khó kham nhẫn, trong trăm ngàn vạn kiếp, chịu thống khổ lớn này.

Bạn biết người ăn thịt, chết đoạ ngục A-tỳ, nhà sắt cũng cao rộng, tám vạn du-thiện-na. Bốn cửa lửa cháy rực, nam bắc đều thông nhau; tường sắt cùng lưới sắt, gông cùm đều bằng sắt, mỗi mỗi bị lửa thiêu, tất cả đều đỏ rực; ăn thịt chịu khổ này, trải trăm ngàn vạn kiếp.

Bạn biết người nấu thịt, chết đoạ ngục nước sôi, sâu rộng cả một vạn, hai ngàn du-thiện-na. Ngày đêm lửa dữ đốt, sùng sục nước trào ở trong đó chịu khổ, một vạn hai ngàn năm.

Bạn biết người nướng thịt, đọa ngục giường sắt nóng, ngục ấy dài và rộng, tám ngàn du-thiện-na. Dưới giường châm lửa đốt, tội nhân nằm ở trên, thân thể cháy đen thui, mười hai ngàn năm thế.

Bạn biết người cắt thịt, chết đoạ ngục chém chặt; năm trăm đại lực sĩ, dùng dao chém tội nhân; băm vằm nhuyễn như bụi, nghiệp phong thổi lại sống; như vậy chết lại sống, trải vạn hai ngàn năm.

Bạn biết nuôi heo gà, gà vì tham thịt béo; mỗi ngày một con gà, ăn năm trăm trùng sống; chủ nhân chịu nửa tội, chết đoạ ngục như gà; ngục ấy đầy phân nóng, tám vạn du-thiện-na; người gà đều vào trong, tròn năm trăm vạn năm.

Bạn biết người săn bắt, giăng bẫy và thả lưới; chết đoạ ngục trục sắt, khắp trục cắm vạn đinh; bắt lên lăn một vòng, khắp thân đầy đinh sắt; đau khổ thật khó nhẫn, trải trăm ngàn vạn kiếp.

Kẻ sát sanh ăn thịt, từ trong địa ngục ra, thọ làm thân quỷ đói; sư tử báo hổ lang, mèo chồn kim xí điểu, chỉ ăn máu thịt tươi; lửa đói thường thiêu tâm, thường luôn nghĩ đến thịt; do đó huân tập ác, hạt giống từ mất biệt. Nếu được sanh làm người, tàn tật mạng ngắn ngủi; ngu si báng nhân quả, chết lại vào địa ngục. Khi Phật nói lời này, vô lượng các quỷ đói, gào than thề dứt thịt, và hộ người dứt thịt. Nay bạn nghe kinh này, sao không chịu đổi thay, vô ích sanh làm người, không bằng hàng quỷ đói. Chớ có đốt núi rừng, chớ có phá bờ đê, chớ chặt cây có ổ (chim), chớ đốt củi có trùng; nếu thấy vật bị giết, phương tiện thường cứu hộ.

Nam mô Thập Phương Phật, đại trí đức Thế tôn; con muốn khuyên chúng sanh, bỏ rượu cầu minh tuệ. Như lời Phật đã nói, uống rượu nhiều lỗi lầm, tám vạn môn trần lao, với ba mươi sáu lỗi, đều do rượu làm gốc, các ngươi nên quán kỹ, say rượu tâm tán loạn, sáu thức thảy hôn mê; vua tôi trái lễ tiết, cha con bỏ tôn ti, mẹ con gái bất hoà, phẩm hạnh không được giữ. Như ở nước Xá-vệ, có Ương-quật-ma-la, uống rượu dâm với mẹ, rồi nhân đó giết cha, rồi mẹ đi ngoại tình, lại mang gươm giết mẹ.

Lại như Sa-già-đà, La-hán có thần thông, hôm đến nước Chi-đề, vào thôn tên Bạt-đà; ở đó có rồng độc, tên Am-bà-la-đề, rồng ấy rất ác độc, thường xâm hại thôn dân; La-hán dùng thần thông, hàng phục rồng độc rồi, thôn dân muốn báo ân, bày dọn nhiều cháo sữa; có một người con gái, yêu say mê La-hán, mới dùng rượu như nước, dâng lên cho La-hán; La-hán tưởng là nước, uống vào rượu tác dụng, mê loạn chùa quay cuồng, y bát đều vứt bỏ; lúc tỉnh dùng thần lực, hàng phục được rồng dữ; say rồi như người chết, không hàng được cóc ếch; Thế tôn bảo la-hán, cùng các Tỳ-kheo tăng, đến chỗ La-hán kia, nhân đây chế cấm rượu, kinh thánh Pháp Niệm nói. Diêm La quở tội nhân, sắp xua vào địa ngục, trước nói kệ như thế, rượu làm loạn lòng người, khiến người như chó dê, không biết làm không làm, như vậy nên bỏ rượu, vì với người say rượu, như người chết không khác. Nếu muốn thường bất tử, người ta nên bỏ rượu, rượu là nơi tội lỗi, thường luôn không ích lợi. Nguyên nhân của ác đạo, nguyên nhân của tối tăm, uống rượu đến địa ngục, cũng đi đến quỷ đói, là đường đến súc sanh, nguyên nhân bởi tại rượu. Rượu là độc trong độc, địa ngục trong địa ngục, là đại bệnh trong bệnh, chính là điều Phật nói.

Ai đã uống rượu rồi, không duyên cớ mà cười, không duyên cớ mà giận, không duyên cớ làm ác. Không tin Phật ra đời, chuyện hoại thế xuất thế, thiêu giải thoát như lửa.

Gọi là pháp rượu này, nếu mà ai bỏ được, đúng như pháp giữ giới, người ấy đến Niết-bàn, không còn chỗ sanh tử. Chớ uống rượu vô minh, là nhân của các khổ, Thanh-văn trụ minh thoát, vậy say thuộc về người.

Nếu khi mắc bệnh khổ, nên quán gốc của bệnh; từ si mà sanh ái, tập nghiệp chiêu quả bệnh; Kỳ-bà thầy thuốc giỏi, còn không thể chữa trị, huống hồ rượu thuốc này, có khả năng trừ bệnh?

Rượu là gốc phóng dật, không uống đóng ác đạo; thà bỏ thân trăm ngàn, không huỷ phạm giới rượu; thà để thân khô gầy, trọn không uống rượu này. Cho dù huỷ phạm giới, thọ mạng cả trăm năm, không bằng sống một ngày, mà giữ được cấm giới.

Chắc chắn chữa lành bệnh, mà ta còn không uống, huống hồ chưa biết chắc, có lành bệnh hay không. Tâm quyết định như thế, liền sanh đại hoan hỷ, lập tức được kiến đế, bệnh tật liền tiêu trừ.

Bạn biết người nấu rượu, chết đoạ ngục phẩn hèm, cũng đoạ ngục nước sôi, một vạn tám ngàn năm.

Bạn biết người bán rượu, chết đoạ ngục hồ rượu, rượu như nước đồng sôi, rơi vào trong chịu khổ.

Bạn biết người uống rượu, chết đoạ ngục Quán Khẩu, tay tự đổ đồng sôi, vào trong miệng chịu khổ.

Bạn biết người mang rượu, ép người trì giới uống, chết đoạ ngục hồ băng, tám vạn năm chịu khổ; da thịt đều rách nát, ngày đêm trăm tử sanh; sau đó năm trăm đời, sanh ra không có tay.

Bạn biết hoặc dùng lực, hoặc vì đùa vui chơi, mang rượu cho tăng ni, cưỡng ép người ta uống, chết đoạ ngục cưa chân. Trong sáu trăm vạn năm, năm trăm đại lực sĩ, luôn cắt chân người ấy. Cho đến đưa bình rượu, năm trăm đời không tay, thường mang thân dòi bọ, ruồi nhặng và muỗi mòng, loài côn trùng nhỏ nhít, mỗi mỗi năm trăm đời.

Bạn biết Cát-đà-bà, mua rượu đổ xuống giếng, Lahán uống nước giếng, tám vạn thánh đều say. Do đó hại thánh nhân, chết đoạ ngục cưa xẻ, liền trong tám vạn kiếp, thường bị khổ cưa xẻ. Sau được sanh làm người, lùn xấu như dị nhân, tai mũi đều bít lỗ, môi sứt răng hô hở, tay chân đều thiếu ngón. Huống hồ tâm phá giới, mang rượu ép người uống.

Thường thấy kẻ ngu si, ép người khác uống rượu; tự mình không trong sạch, đã không tâm hổ thẹn, lại mang thứ bất tịnh, ép người khác phá giới.

Chẳng thà đoạn thân mạng, không phá thiện tâm người; bỏ mạng một đời này, chưa hẳn vào ba cõi; phá giới dứt trời người, và mất pháp giải thoát.

Bạn biết dứt rượu thịt, được phước đức không cùng; ví người mang thất bảo, quốc thành cùng vợ con, đem bố thí hết thảy, không bằng một phần ngàn, của người dứt rượu thịt; cho đến cả đại thiên, thất bảo mang bố thí, không bằng một phần ngàn, của người dứt rượu thịt. Giả sử vì cầu phước, dùng trăm ngàn lượng vàng, mang ra bố thí khắp, không bằng một phần ngàn, của người dứt rượu thịt. Giả sử có Phật tử, tạo phan hoa bảo cái, đầy khắp cả đại thiên, mang dùng cúng dường Phật, không bằng một phần ngàn, của người dứt rượu thịt.

Phạm rượu mắc tội nặng, giữ rượu phước cũng sâu; thiện ác hai cái đối, khổ lạc cũng theo chiều; hãy nhanh sớm quay lại, hối cải thiện tâm sanh; chớ đợi vô thường đến, như bình đầy tự chìm; khuyên ai nên cố gắng, cùng sánh bước tiến lên.

Kệ này đều trích từ các kinh, khi đọc nên bảo hộ; nếu khinh mạn, tức là khinh mạn các kinh đại thừa, mắc tội không nhỏ.