Chánh văn Liễu Phàm Tứ Huấn – Bài 3
LIỄU PHÀM TỨ HUẤN
(BÀI 3)
***
GIÁO HUẤN THỨ BA
PHƯƠNG PHÁP TÍCH THIỆN
(tiếp theo)
***
Mười ví dụ về người xưa làm thiện được phước (tiếp theo)
Tấm gương thứ chín
Ở phủ Gia Hưng có người tên Bao Bằng, hiệu Tín Chi, thân phụ ông làm thái thú huyện Trì Dương sinh được bảy người con. Bằng là út, gởi rể ở nhà họ Viên, huyện Bình Hồ cùng với phụ thân ta là chỗ thâm giao, học rộng tài cao, nhiều lần thi hương không đậu cử nhân nên chán chuyện khoa bảng mà chuyên tâm học Phật và Lão.
Một hôm đi du ngoạn Mão Hồ ở phía đông tỉnh, ngẫu nhiên tới một ngôi chùa ở làng nọ, thấy tượng đức Quán Thế Âm bị lộ thiên, dầm mưa loang lổ, bèn mở túi đẫy lấy 10 lạng bạc đưa cúng dường để hòa thượng trụ trì sửa lại chùa cho khỏi dột nát làm tượng bị ướt át.
Thì hòa thượng cáo bạch là việc tu sửa mất nhiều công mà tiền bạc không đủ, e khó hoàn thành công tác.
Bao Bằng cho mở rương mây lấy thêm bốn tấm vải, sản phẩm của Tung Giang, và bảy bộ áo kép bằng vải gai còn mới tinh đưa cúng dường để bán lấy tiền phụ thêm vào việc tu bổ chùa.
Người làm có ý tiếc, ngăn cản lại thì Bao Bằng bảo miễn là tượng đức Bồ Tát không bị ướt át là được, ta dù có ở trần cũng chẳng thương tổn gì.
Hòa thượng trụ trì nghe nói cảm kích rơi lệ bảo rằng:
– Tiền tài, vải vóc, quần áo xả bỏ không phải là điều khó, chỉ riêng có tấm lòng chân thành như vậy đâu phải dễ có.
Sau, công việc tu bổ hoàn thành, ông dẫn cha già cùng đi, đêm ngụ lại ở chùa, mộng thấy các vị hộ pháp lại cảm tạ, bảo:
– Con cháu nhà ngươi sẽ được hưởng lộc ở đời. Về sau con ông là Biện và cháu là Sanh Phương đều đăng khoa, đỗ đạt, quan chức hiển hách.
Tấm gương thứ mười
Phụ thân của Chi Lập, người huyện Gia Thiện, làm lại ở phòng hình sự thấy một tù nhân vô cớ bị hàm oan hãm vào trọng tội, ông lấy làm thương hại muốn cứu mạng. Tù nhân cảm kích bảo vợ rằng:
– Chi công có lòng tốt muốn giải oan cứu sống ta, thực lấy làm hổ thẹn là ta không có gì báo đền ơn đức ấy được. Ngày mai, nàng hãy về nhà ngỏ ý đem thân hầu hạ, hoặc giả ông ấy chịu thu dụng nàng, tất ta ắt có đường sống vậy.
Người vợ khóc mà nghe lời chồng. Kịp khi họ Chi tới, tự mình ra mời rượu và bày tỏ hết ý nguyện của chồng.
Họ Chi tuy không nghe nhưng vẫn tận tình giúp đỡ để bạch hóa án oan. Người tù được tha, cả hai vợ chồng cùng đến nhà khấu đầu cảm tạ mà bảo rằng:
– Chi công ân đức dày như vậy, ở đời thực hiếm có, hiện nay chúng tôi có đứa con gái đã lớn muốn tiến dẫn làm thiếp để hầu hạ công việc nhà cửa, đây cũng là chuyện thường tình hợp lý.
Huyện lại họ Chi sắm sanh lễ vật và thâu nạp làm thiếp, sinh ra Chi Lập mới hai mươi tuổi đã đỗ tiến sĩ, làm quan tới chức Khổng mục ở Hàn Lâm Viện. Lập sinh ra Cao, Cao sinh ra Lộc đều học rộng và có chức phận cả. Lộc sinh ra Đại Luân cũng khoa bảng đề danh.
Mười chuyện trên đây, tuy cách cư xử, hành động của các nhân vật có khác nhau, nhưng đều quy về việc làm lành lại gặp quả báo tốt lành.
Bàn luận rõ ràng về thiện
Nếu xét một cách tinh tường mà nói, thì thiện:
(1) Có thật, có giả,
(2) Có ngay thẳng có khuất khúc,
(3) Có âm có dương,
(4) Có phải hay chẳng phải,
(5) Có lệch hay chính đáng,
(6) Có đầy có vơi,
(7) Có tiểu có đại,
(
Có dễ có khó,

Đều cần bàn luận rõ ràng.
Làm việc thiện mà không hiểu rõ đạo lý, cứ tự cho việc mình làm là hành thiện, ắt không khỏi tạo nghiệp, uổng phí mất tâm tư một cách vô ích.
Xưa có một số nho sinh yết kiến Trung Phong hòa thượng (một vị cao tăng triều đại nhà Nguyên) mà hỏi:
– Nhà Phật bàn thiện ác báo ứng như bóng theo hình, tức làm lành gặp lành, làm ác gặp ác; nay có người nọ thiện mà con cháu lại không được thịnh vượng, mà kẻ kia ác thì gia đình lại phát đạt, như vậy là Phật nói về việc báo ứng thực vô căn cứ sao?
Hòa thượng nói:
– Người phàm tâm tình chưa được tẩy sạch, chưa được thanh tịnh, tuệ nhãn chưa khai, thường nhận thiện làm ác, cho ác là thiện; người như vậy không phải là hiếm có, đã tự mình lẫn lộn phải trái, cho ác là thiện, cho thiện là ác, điên đảo đảo điên mà không hay lại còn trách oán trời cho báo ứng là sai, là không công bằng ư.
Bọn nho sinh lại hỏi:
– Mọi người thấy thiện thì cho là thiện, thấy ác thì cho là ác, sao lại bảo là lẫn lộn, trái ngược, điên đảo vậy?
Hòa thượng bảo họ:
– Thử ví dụ xem sự tình như thế nào là thiện và thế nào là ác.
Một người trong bọn họ nói:
– Mắng chửi đánh đập người là ác, tôn kính, lễ phép với người là thiện.
Hòa thượng nói:
– Không nhất định là như vậy.
Một người khác cho là
– Tham lam, lấy bậy của người là ác, gìn giữ sự thanh bạch liêm khiết là thiện.
Hòa thượng cũng bảo:
– Không nhất định như vậy.
Mọi người đều lần lượt đưa ra thí dụ về thiện và ác, nhưng Trung Phong hòa thượng đều bảo:
– Không nhất định như vậy.
Nhân thế bọn họ đều thỉnh hòa thượng giảng giải cho.
Thế nào là thiện, là ác?
Ngài Trung Phong dạy rằng:
– Có ích cho người là thiện, có ích cho mình là ác. Có ích cho người, mà đánh mà mắng người thì đều là thiện; có ích cho mình, mà cung kính lễ phép với người, thì đều là ác.
Thế nào là Thiện thật, thiện giả
Nếu vì người mà hành thiện, lợi người là công, công sẽ là thật; lợi mình là tư, tư ắt là giả.
Nếu người làm từ tâm của mình thì là thật, còn làm lấy lệ ắt là giả;
Hơn nữa, hành thiện mà không nghĩ tới một sự báo đáp nào cả là chân thiện, trái lại còn hy vọng có sự đền đáp là giả thiện, đó là những điều tự mình cần khảo sát kĩ lưỡng)
Nay ta thấy một người cẩn thận dễ bảo mà vội phân loại ra cho là thiện nhân có thể dung nạp.
Các vị thánh nhân dùng người thì lại khác, thà dùng một cuồng sỹ cao ngạo, quật cường có tài cán biết mạnh dạn tiến thủ còn hơn.
Người an phận, giữ mình, dễ bảo, tuy ở đời ai cũng ưa thích cho là tốt, nhưng thánh nhân cho là không có chí khí hướng thượng, chỉ biết vâng dạ không hiểu rõ đạo lý nên có phần không lợi cho nền phong tục đạo đức.
Bởi thế cho nên quan niệm của người phàm về thiện ác, tốt xấu thựcrõ ràng khác biệt, tương phản với thánh nhân vậy.
Còn chỗ thiên địa, quỷ thần coi là phúc, thiện họa, dâm tà, phải trái đều đồng tiêu chuẩn với thánh nhân mà khác biệt hẳn với người phàm tục.
Phàm muốn tích lũy thiện tất phải phát xuất từ chỗ tiềm ẩn của chân tâm đã được thanh lọc hết ý ác, quyết không để tai mắt sai khiến hành thiện vì tự tư tự lợi.
Thế nào là thẳng là cong?
Một lòng một dạ cứu giúp đời là ngay thẳng, còn nếu có chút lòng mị thế, lấy lòng người để được danh vọng, tiền tài thì là hành động khuất khúc (cong);
Tâm thuần khiết yêu thương người, đó là thẳng; chỉ một chút tâm oán giận thế gian, đó là khuất khúc (cong).
Chỉ một lòng một dạ tôn kính người là ngay thẳng, còn có chút lòng bỡn cợt, coi khinh người là khuất khúc; đều nên bàn luận tường tận.
Thế nào là âm thiện, dương thiện?
Thiện có “âm thiện”, có “dương thiện”. Làm việc thiện mà người ta biết gọi là dương thiện. Làm việc thiện mà không ai hay gọi là âm đức. Âm đức, trời sẽ thưởng. Dương thiện, hưởng tiếng tăm. Tiếng tăm, cũng là phước báu vậy.
Xưa nay những người có danh, có tiếng thường bị tạo hóa ganh ghét đố kỵ; vì thế những người có danh tiếng lừng lẫy mà thực sự không có nhiều công đức xứng đáng với danh tiếng đó, thường gặp phải nhiều tai họa bất kì xảy ra; Còn người không tội lại bị oan, chịu tiếng xấu thì thường con cháu phát đạt.
Chỗ sai biệt của dương thiện và âm thiện rất vi tế, cần phải cẩn thận suy xét.
Thế nào là thiện đúng, thiện sai?
Nước Lỗ xưa có luật người Lỗ nào chuộc được người bị bắt làm kẻ hầu hạ ở các nước chư hầu về đều được phủ quan thưởng tiền. Tử Cống (học trò đức Khổng tên là Tứ) chuộc người về mà không nhận tiền thưởng.
Đức Khổng nghe biết lấy làm buồn phiền mà bảo rằng:
– Tứ làm việc thất sách rồi. Ôi, thánh nhân xử sự nhất cử nhất động có thể cải sửa phong tục, thay đổi tập quán, làm gương mẫu cho bách tính noi theo, chẳng phải cứ nhiệm ý làm những việc thích hợp với riêng mình. Nay nước Lỗ, người giàu ít, người nghèo thì nhiều, nếu nhận thưởng cho là tham tiền, là không liêm khiết, còn không lãnh thưởng thì người nghèo sao có tiền tiếp tục chuộc người? Từ nay về sau chắc không ai chuộc người ở các nước chư hầu về nữa.
Tử Lộ (tên Do, học trò đức Khổng) cứu người khỏi chết đuối, được tạ ân một con trâu. Tử Lộ nhận lãnh, đức Khổng hay chuyện hoan hỷ bảo rằng:
– Từ nay về sau nước Lỗ sẽ có nhiều người lo cấp cứu kẻ chết đuối.
Cứ lấy con mắt phàm tục mà xét thì Tử Cống không lãnh tiền thưởng là hay, còn Tử Lộ nhận tặng trâu là kém. Nhưng kiến giải của thánh nhân khác với người phàm nên trái lại đức Khổng lại chọn Do mà truất Tứ.
Vậy nên biết người hành thiện: Không nghĩ hiện tại, phải nghĩ đến sự ảnh hưởng; Không nghĩ nhất thời, phải nghĩ đến dài lâu; Không nghĩ lợi cá nhân, phải nghĩ lợi cho thiên hạ đại chúng nữa.
Hiện tại tuy là thiện, nhưng nếu gây ra ảnh hưởng không tốt lại thành hại người, thì tưởng thiện mà lại không phải thiện;
Hiện tại tuy bất thiện, nhưng nếu có thể ảnh hưởng lợi ích cho người, lại thành ra cứu người, thì tưởng bất thiện mà lại là thiện.
Chỉ là từ một việc này để nói mà thôi, những điều khác cũng vậy, bất nghĩa lại là nghĩa, vô lễ lại là lễ, bất tín lại là tín, không từ bi lại là từ bi, đều phải chọn lựa.
Thế nào là thiện trong ác, ác trong thiện?
Xưa, ông Lã Văn Ý, lúc mới từ chức tể tướng, cáo lỗi hồi hương, dân chúng bốn phương nghênh đón như Thái sơn, Bắc đẩu. Nhưng có một người say rượu mạ lỵ ông. Lã công điềm nhiên bất động bảo gia nhân:
– Kẻ say chẳng chấp làm gì, đóng cửa lại mặc kệ hắn.
Qua một năm sau, người đó phạm tội tử hình bị giam vào ngục. Lã công hay biết sự tình mới hối hận rằng:
– Giá mà ngày ấy ta bắt hắn đưa quan nha xử phạt thì hắn có thể chỉ bị trừng giới với một tội phạm nhẹ mà tránh khỏi phạm trọng tội về sau. Ta lúc đó chỉ muốn giữ lòng nhân hậu tha thứ cho hắn, không ngờ lại hóa ra nuôi dưỡng tính ngông cuồng của hắn để phạm phải tội tử hình như ngày nay vậy. Đó là một sự việc do lòng thiện mà hóa ra làm ác.
Lại nữa, có khi làm việc thiện với tâm ác, như một nhà đại phú nọ gặp năm mất mùa, dân nghèo giữa ban ngày cướp bóc thóc gạo ở ngay nơi thị tứ, báo cáo lên huyện thì huyện không xử lý, dân nghèo được thể càng lộng hành. Gia đình nọ bèn tự xử sự cho bắt những kẻ cướp bóc giam giữ trị tội nên ổn định được tình hình, nếu không hành động như vậy cướp sẽ làm loạn.
Sở dĩ ai cũng đều biết làm thiện là chính đáng và làm ác là thiên lệch nhưng tâm tuy thiện là chính, mà việc làm hóa ra ác là thiên lệch nên gọi đó là “thiên” ở trong “chính”; còn tâm tuy ác mà việc làm hóa ra thiện, đó là “chính” ở trong “thiên” vậy. Sự lý này không thể không hiểu cho thật rõ ràng.
Thế nào là thiện đầy thiện vơi?
Kinh Dịch nói: Việc thiện mà chẳng tích lũy lại cho nhiều thì không đủ để được danh thơm tiếng tốt; Việc ác mà không đọng lại nhiều chẳng đủ để bị họa sát thân.
Kinh Thư có nói nhà Thương tội ác quá nhiều như nước vỡ bờ vì thế mà Trụ vương bị diệt. Việc tích thiện cũng như lưu trữ vật dụng, nếu chăm chỉ cất giữ ắt sẽ đầy kho, còn biếng nhác không chịu tích lại thì vơi chứ không đầy. Chuyện làm thiện được đầy hay vơi, bán hay mãn là như vậy.
Xưa có một nữ thí chủ vào chùa lễ Phật, muốn cúng dường nhưng lại không có tiền, trong túi chỉ còn hai đồng bèn đem cả ra để cúng. Vị trụ trì đích thân làm lễ bái sám hồi hướng cho. Sau nữ nhân đó được tuyển vào cung, tiền tài, phú quý có thừa, đến chùa lễ Phật đem cả ngàn lượng bạc cúng dường. Hòa thượng trụ trì sai đồ đệ thay mình làm lễ hồi hướng mà thôi. Nữ thí chủ nọ thấy vậy liền hỏi:
– Trước đây tôi chỉ cúng dường có hai đồng mà phương trượng đích thân làm lễ bái sám hồi hướng cho, nay cúng dường cả ngàn lượng bạc mà sư lại không tự mình làm lễ là vì sao vậy?
Vị hòa thượng đáp:
– Trước kia tiền bố thí quả là ít ỏi, nhưng xuất phát từ tấm lòng thật chân thành, nếu bần tăng không đích thân bái sám hồi hướng thì không đủ báo đáp được ân đức ấy. Nay tiền cúng dường tuy thật quá hậu, nhưng tâm bố thí không được chân thành như trước, nên bảo đồ đệ thay bần tăng làm lễ cũng đủ. Với lòng chí thành bố thí cúng dường chỉ hai đồng mà việc thiện được viên mãn, còn bố thí cả ngàn lượng bạc mà lòng không được chí thiết thì công đức đó chỉ được bán phần mà thôi.
Trên đây là một thuyết nói về làm thiện được bán và mãn hay vơi và đầy vậy.
Chung Ly Quyền chỉ dạy cho Lã Đồng Tân cách luyện đan điểm sắt thành vàng có thể đem dùng để cứu giúp người đời. Lã Đồng Tân hỏi rằng:
– Vàng đó sau có thể biến chất hay không?
Chung Ly Quyền bảo:
– Năm trăm năm sau vàng ấy sẽ trở lại nguyên bản chất cũ là sắt.
Thì họ Lã nói:
– Như vậy là sẽ gia hại cho người đời 500 năm về sau, ta chẳng muốn học phép ấy làm gì.
Chung Ly Quyền bảo:
– Muốn tu tiên cần phải tích công lũy đức 3000 điều, nhưng chỉ một lời của nhà ngươi nói đó cũng đủ mãn 3000 công đức rồi.
Đây lại thêm một thuyết nữa về đầy vơi hay bán mãn vậy”
Hơn nữa, làm việc thiện mà lòng không chấp trước vào điều thiện đó, thì làm thiện ở đâu cũng đạt công đức viên mãn.
Nếu trong tâm dính mắc vào việc thiện đó, thì dù suốt đời siêng năng làm thiện nhưng công đức chỉ được một nửa mà thôi.
Ví như dùng tài vật giúp người: Nếu trong không thấy mình cho, ngoài không thấy người nhận, giữa không thấy vật được cho, mới gọi là Tam-Luân-Thể-Không.
Bố thí với tấm lòng thanh tịnh như vậy thì dù bố thí một phễu thóc cũng có thể trồng thành vô lượng phước đức. Dù bố thí một đồng tiền cũng có thể tiêu trừ được ngàn kiếp nghiệp tội.
Nếu làm thiện mà ghi nhớ trong lòng, thì dù bố thí ngàn lượng vàng, phước đức vẫn không viên mãn. Đây cũng là một ví dụ về bán thiện và mãn thiện vậy.
Thế nào là thiện đại và thiện tiểu?
Xưa Vệ Trọng Đạt, một quan chức ở Hàn Lâm Viện bị nhiếp hồn đưa xuống âm phủ. Diêm vương sai các phán quan trình những cuốn sổ ghi việc thiện và ác ra để xét. Nếu đem so sánh thì sổ ghi những việc ác thực quá nhiều, còn sổ ghi việc thiện chỉ có một cuốn nhỏ mỏng như que đũa mà thôi. Diêm vương sai bắc lên cân, cân thử thì bên 1 cuốn sổ ghi việc thiện lại nặng nhiều hơn tất cả những cuốn sổ ghi việc ác hợp lại. Trọng Đạt nhân thế mới hỏi:
– Năm nay, bản chức chưa đến 40 tuổi đời mà sao tội lỗi lại có thể nhiều đến như thế?
Thì Diêm vương bảo:
– Mỗi một niệm ác kể là một tội không cần đợi tới lúc có thực sự phạm phải hay không.
Trọng Đạt lại hỏi thêm là trong cuốn sổ nhỏ đó ghi việc thiện gì vậy.
Diêm vương bảo:
– Triều đình đã từng dự tính khởi đại công tác tu sửa cầu đá ở Tam Sơn, nhà ngươi dâng sớ can gián. Sớ văn đó có ghi chép vào sổ vậy.
Trọng Đạt thưa:
– Bản chức tuy có dâng sớ, nhưng triều đình không y theo lời tấu trình, thì sự việc đâu có ích gì?
Thì Diêm vương lại bảo cho hay là:
– Triều đình không y theo lời tấu, nhưng một niệm thiện đó của nhà ngươi là vì lợi ích của toàn dân, muốn cho họ khỏi bị lao công vất vả, khỏi bị sưu cao thuế nặng, nếu mà lời tấu được triều đình y theo thì công đức của nhà ngươi thực vô cùng lớn lao.
Cho nên nếu có chí nguyện làm việc lợi ích cho quốc gia thiên hạ, cho đại chúng thì tuy việc làm đó có nhỏ mà công đức lại lớn, còn nếu chỉ nghĩ làm lợi riêng cho thân mình thì tuy có làm nhiều mà công đức lại nhỏ vậy.
Thế nào là khó và dễ
Các vị tiên nho xưa có nói muốn khắc phục mình, muốn thắng được tâm mình thì nên bắt đầu từ chỗ khó khắc phục mà khởi công trước.
Đức Khổng Tử bàn về “nhân” (nhân từ) cũng nói bắt đầu từ chỗ khó mà thi hành trước, (tức là từ chỗ phải thắng được lòng mình vậy, bởi lẽ khó mà làm được thì dễ ắt cũng làm xong).
Như ông họ Thư ở Giang Tây bỏ hết cả tiền lương gom góp trong hai năm dạy học đem nộp quan để trừ vào tiền thiếu nợ giúp cho hai vợ chồng nhà nọ được sum họp khỏi bị bắt đi làm gia nhân nhà người; đó đều có thể gọi là chỗ khó xả bỏ mà xả bỏ được.
Cùng với trưởng lão Hàm Đan, bỏ ra số tiền tích cóp trong mười năm, trả thay tiền chuộc, để cứu sống người vợ, đây đều là có thể buông xả từ nơi khó buông vậy.
Lại như ông già họ Cận ở Trấn Giang tuổi đã cao, không con nối dõi, lân gia có người đem đứa con gái còn trẻ đến cho nạp làm thiếp, nhưng ông không nhẫn tâm thu nạp mà đem hoàn trả lại. Đó là chỗ khó có thể nhẫn mà nhẫn được. Vậy nên phúc báo trời cho hưởng sẽ được hậu.
Phàm những người có tiền tài, có quyền thế mà họ muốn làm phúc thì thực là dễ, dễ mà chẳng làm là tự hủy hoại mình. Người nghèo hèn khốn cùng muốn làm phúc thì thật là khó, khó nhưng mà làm được, đó mới thực là đáng quý vậy.
Tùy duyên tu 10 điều thiện
Tùy lúc gặp duyên lành cứu giúp người, hay tùy hỷ công đức mà hành thiện, nếu phân biệt ra từng loại thì thật rất nhiều, nhưng đại khái có 10 loại như sau:
– Thứ nhất, trợ giúp người cùng làm thiện;
– Thứ hai, giữ lòng kính mến người;
– Thứ ba, thành toàn việc thiện của người;
– Thứ tư, khuyến khích người làm thiện;
– Thứ năm, cứu người gặp nguy khốn;
– Thứ sáu, kiến thiết, tu bổ có lợi ích lớn;
– Thứ bảy, xả tài làm phúc;
– Thứ tám, giữ gìn bảo hộ chánh pháp;
– Thứ chín, kính trọng tôn trưởng;
– Thứ mười, thương tiếc mạng sống loài vật.
Thứ nhất: Thế nào là cùng người hành thiện?
Xưa vua Thuấn, lúc chưa tức vị, thấy những người đánh cá ở đầm Lôi Trạch, đều tranh chiếm chỗ nước sâu nhiều cá, còn người già yếu phải tìm chỗ nước nông cạn chảy xiết ít cá mà đánh, nên có lòng trắc ẩn bất nhẫn, bèn cũng tới đánh cá;
Thấy người nào cũng tranh giành chỗ, thì ông im lặng không đả động gì đến tánh xấu ấy;
Còn thấy người mà có lòng nhường chỗ thì ông hết lời khen ngợi mà theo gương đó cũng nhường chỗ cho người khác.
Một năm sau, những người đánh cá ở những chỗ nước sâu, ai cũng có lòng nhường chỗ cho nhau mà không tranh giành nữa
Ôi, vua Thuấn thực là sáng suốt, há chẳng phải mất lời mà khuyên bảo giáo hóa được người sao! Tuy không dùng lời mà dùng chính bản thân mình làm gương mẫu cho người khác tự sửa đổi lấy mình. Đây là chỗ khổ tâm và khéo dụng công của vua Thuấn vậy.)
Đời ta thuộc thời mạt pháp,
– Đừng đem ưu điểm của mình mà trùm lớp người,
– Đừng đem điều thiện của mình mà so sánh với người,
– Đừng đem tài năng của mình mà làm khó người.
– Ẩn giấu tài trí, như bất tài như yếu kém vậy;
– Thấy lỗi người khác, lại bao dung mà giấu kín, một mặt để họ có cơ hội sửa, một mặt để họ tự kiêng dè mà không dám phóng túng;
– Thấy người có ưu điểm nhỏ cũng đều áp dụng, có việc thiện nhỏ cũng ghi nhớ kỹ, gạt cái ta sang một bên mà thuận theo, rồi ca ngợi và nói cho mọi người biết.
– Hàng ngày, khi nói một lời, khi làm một việc, tất đều không vì mình mà khởi niệm, đều vì chúng sanh mà làm gương.
Vì việc nên làm mà làm đó chính là thánh nhân.
Người quân tử và tiểu nhân, nếu xét từ hình tướng, thường rất khó phân biệt, duy chỉ có một điểm khác là tâm không đồng, thiện ác khác biệt hoàn toàn, cũng giống như trắng đen vậy, tuyệt đối không lẫn lộn.
Nên mới nói: Người quân tử khác người ở nơi tâm của họ vậy. Chỗ tâm của người quân tử chỉ là lòng yêu thương người, kính lễ người mà thôi.
Đại khái con người ta ở đời có người thân sơ hay sang hèn, có người thông minh trí tuệ hay đần độn ngu si, có người hiền lương đạo đức hay phàm phu tục tử, hàng vạn vạn người chẳng ai giống ai, nhưng đều là đồng bào của ta, đều cùng một bản thể với ta, sao lại chẳng yêu kính ư?
Thánh hiền nhân thường luôn kính trọng, thương yêu đại chúng làm lợi cho đại chúng. Cho nên yêu kính lễ, thương yêu mọi người, chính là yêu thương kính lễ bậc Thánh Hiền;
Hiểu được ý chí chúng sinh, chính là thấu hiểu được ý chí của bậc Thánh Hiền. Vì sao vậy? Ý chí của bậc Thánh Hiền vốn dĩ vẫn vì đại chúng mà làm cho họ được như ý muốn, đạt được những điều mà họ mong đợi
Tâm chúng ta nếu trùng hợp với tâm yêu, kính mà làm cho đại chúng được an lạc tức là chúng ta đã vì thánh hiền nhân mà làm lợi lạc cho mọi người vậy.